(Tranh ảnh minh họa bài "Tây Tiến" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Thái Quang Duy, 03 Võ Thụy Anh)
Đề 12: Cảm nhận khổ 9, 10: Người về xuôi nhớ Bác Hồ và Chính phủ ở Việt Bắc và lời hứa của người cán bộ.
Bài làm
Nhà thơ Tố Hữu – một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Cuộc đời ông gắn liền với cách mạng và nghệ thuật được thể hiện qua những tập thơ như “Từ ấy”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa” và “Việt Bắc”- tập thơ như khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống Pháp và con người kháng chiến. Đoạn trích này ở phần I bài thơ Việt Bắc tái hiện những kỉ niệm giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ kháng chiến. Trong đó, nổi bật là hai khổ thơ 9 và 10 đã khắc họa rõ nét tình vảm của người về xuôi nhớ Bác Hồ và Chính phủ ở Việt Bắc và lời hứa của người cán bộ.
“… Ai về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.Nắng trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngĐiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu...Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.Mười lăm năm ấy, ai quênQuê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoàMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của đất nước được mở ra. Tháng 10/1954, các khu cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu- một con người có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng và nhà thơ bởi vì lẽ đó thơ ông gắn bó chặt chẽ với cuộc đầu tranh cách mạng nên các chặng đường thơ của ông cũng song hành với các giai đoạn chính yếu của cách mạng. Trong cảm xúc của sự chia tay đầy lưu luyến ân tình giữa Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng tác giả đã viết bài thơ này như khúc hát ân tình thủy chung của con người kháng chiến với quê hương và nhân dân Việt Bắc.
Với khổ thơ thứ chin, tác giả mở cho ta một khung cảnh về cuộc chiến toàn diện để bày tỏ lời nói của người cán bộ.
“… Ai về ai có nhớ không?Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.Nắng trưa rực rỡ sao vàngTrung ương, Chính phủ luận bàn việc côngĐiều quân chiến dịch thu đôngNông thôn phát động, giao thông mở đườngGiữ đê, phòng hạn, thu lươngGửi dao miền ngược, thêm trường các khu...”
Cái tâm trạng sợ người ra đi quên những hình ảnh sinh hoạt ở Việt Bắc của Đảng, Trung ương và Chính phủ với biết bao chiến dịch, phong trào về quân sự, kinh tế, văn hóa,…. Cứ sống dậy mãnh liệt trong tâm hồn Việt Bắc. Bên cạnh đó, cũng thể hiện vai trò của Việt Bắc trong kháng chiến và niềm tin của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, chiến khu Việt Bắc là một trong những nơi trọng điểm. Đó là cơ quan đầu não “ngọn cờ đỏ thắm”, “sao vàng”, là nới Trung ương Đảng và Bác quyết định các chủ trương trong kháng chiến, phát triển kinh tế văn hóa “Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công/ Điều quân chiến dịch thu đông/ Nông thôn phát động, giao thông mở đường”.
Ở khổ thơ cuối là lời người cán bộ cách mạng ca ngợi Bác, hình ảnh trung tâm của Việt Bắc, biểu tượng của những gì cao quý, đẹp đẽ nhất của Việt Bắc và của dân tộc Việt Nam và ca ngợi quê hương cách mạng.
“…Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soiỞ đâu đau đớn giống nòiTrông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.Mười lăm năm ấy, ai quênQuê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoàMình về mình lại nhớ taMái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…
Hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu được ngợi ca bằng một tình yêu thành kính. Nghệ thuật tương phản “u ám quân thù” >< “ Cụ Hồ sáng soi” nhân mạnh vị trí và uy tín của Bác trong lòng dân. Bác là ánh sáng xua tan đi bóng đêm nô lệ, là niềm tin, là sức mạnh của cả dân tộc, đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai câu thơ tiếp theo “Ở đâu đau đớn giống nòi/ Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.” cho thấy Việt Bắc là điểm tựa tinh thần của nhân dân ta trong những năm kháng chiến gian khổ. Việt Bắc còn là niềm hi vọng, mong đợi của cả dân tộc “Mười lăm năm ấy, ai quên/…/Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…”
Nhịp thơ, lời thơ tạo ra giọng điệu trang trọng, lắng sâu trong niềm tin lớn, Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là nơi hội tụ bao nhiêu tình cảm, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những đen tối, hình ảnh Việt Bắc, hình ảnh Bác Hồ, Đảng là nơi nuôi dưỡng sức mạnh đấu tranh, là ánh sáng của tâm hồn người Việt. Hai khổ thơ cuối là một bản hùng ca và là khúc tình ca về cách mạng, về vùng đất và con người kháng chiến. Khéo léo sử dụng thể thơ lục bát, kết câu đối đáp “mình, ta” gần gũi với ca dao, hình ảnh so sánh, ẩn dụ quen thuộc. Ngôn từ mộc mạc, dân dã, giàu nhạc điệu cùng với giọng điệu tâm tình tha thiết tác giả đã mang cho đoạn trích mang trong mình đậm đà tính dân tộc.
Chỉ với hai khổ thơ cuối nhà thơ Tố Hữu đã khắc họa rõ nét hình ảnh người về xuôi nhớ Bác Hồ và Chính phủ ở Việt Bắc và lời hứa của người cán bộ. Có thể nói đoạn trích là bản hùng ca về cuộc sống kháng chiến, nhân dân anh hùng, mang tính sử thi. Cùng với đó đoạn trích cũng như tác phẩm “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là tác phẩm xuất sắc của văn học thời kháng chiến chống Pháp. Qua đoạn trích ta thấy được sự tài hoa, tinh tế những vẫn mang tính dân tộc, nhẹ nhàng gần gũi của nhà thơ để qua đó thế hệ sau sẽ tiếp bước thế hệ đi trước và tiếp tục giữ gìn, phát huy tình thần yêu nước kiên cường bất khuất cùng những truyền thống, giá trị tốt đẹp của quê hương, đất nước.
Bài của bạn có hệ thống luận điểm rõ ràng, bố cục bài chặt chẽ, và cách đi bài mượt mà.
Trả lờiXóaCảm ơn Vy nhiều nha
XóaBố cục bài viết đầy đủ, chỉnh chu, có trích dẫn thơ. Tình cảm của người về xuôi dành cho Bác Hồ và Chính Phủ ở Việt Nam được phân tích ổn định dù mình chưa thấy lắm cũng như còn thiếu sơ về lời hứa anh cán bộ. Ngoài vài lỗi chính tả ra thì bài văn tương đối ổn.
Trả lờiXóaVũ Hoàng Anh Thư-32
Cảm ơn bạn nhé mình sẽ rút kinh nghiệm và sửa lại.
Xóa