40 Huỳnh Ngọc Thanh Trúc

(tranh ảnh minh họa bài "Tây Tiến" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Mai Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)


Đề 5: Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong hai đoạn thơ sau:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
(Trích “Từ ấy-Tố Hữu, Ngữ Văn 11, tập 2)

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.
(Trích Tây Tiến-Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập 1)

Bài làm.

              Có thể nói, nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là giai đoạn nở rộ khi xuất hiện rất nhiều tác phẩm văn học có giá trị to lớn. Đã đóng góp cho lịch sử văn học nước nhà mang về nhiều thành tựu vô cùng ý nghĩa. Đằng sau những tác phẩm văn học mang giá trị to lớn ấy là sự trưởng thành của các tác giả viết về đề tài kháng chiến, đề tài đất nước trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. Những ngòi bút siêu phàm ấy mang theo trong mình lí tưởng cộng sản mãnh liệt và thể hiện được tấm lòng sâu nặng của chính mình đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Khiến cho những tác phẩm được tạo ra đều mang đậm những nét riêng, chất riêng của từng nhà văn, nhà thơ… gây được nhiều tiếng vang, khích lệ tinh thần đấu tranh kiên cường của dân tộc. Và có lẽ hai đặc điểm nổi bật dẫn đến sự thành công của hàng loạt tác phẩm, tác giả nổi tiếng ấy chính là khuynh hướng sử thi giúp tác giả thể hiện rõ những tình cảm, cảm xúc tự hào của bản thân về những vấn đề lớn lao, quyết định vận mệnh chung của cộng đồng . Đặc điểm còn lại gắn liền với nó chính là cảm hứng lãng mạn, miêu tả cách nhìn thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, đầy mơ ước của tác giả mà mỗi tác phẩm đều có. Tiêu biểu chứng minh cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trên, cùng quay về khoảng thời gian năm 1945-1975 và đến với đoạn trích nhỏ của hai tác phẩm “Từ ấy” của nhà thơ Tố Hữu:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ 
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

và “Tây Tiến” dưới ngòi bút của nhà thơ Quang Dũng:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.”

                Vậy chúng ta có thể hiểu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn như thế nào? Theo sự phát triển của lịch sử xã hội và lịch sử văn học, thể loại sử thi đã không còn nhưng chất sử thi vẫn tồn tại và được dấy lên mạnh mẽ mỗi khi vận mệnh dân tộc bị đe dọa. Khuynh hướng sử thi được hiểu là những tình cảm, cảm xúc tự hào của tác giả về những vấn đề lớn lao, quyết định vận mệnh chung của cộng đồng. Đây là nguồn cảm hứng chi phối mạnh mẽ đến các sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến. Nên tác phẩm viết theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm đề cập đến những đề tài có ý nghĩa lịch sử và mang tính dân tộc. Còn cảm hứng lãng mạn, có thể hiểu là “sự phấn chấn tinh thần hướng tới lí tưởng cao cả”, là cách nhìn thế giới mang đậm dấu ấn chủ quan, đầy mơ ước, mang đến sự tích cực cho tinh thần của người viết và cả người đọc, người nghe. Có khi đó là sự mơ ước bay bổng hướng tới cái chưa có trong thực tế bằng niềm tin, sự lạc quan. Cảm hứng lãng mạn mang nội dung trữ tình sôi nổi, hướng về tương lai, nó không chỉ sôi nổi trong thơ mà còn cả trong văn xuôi. Từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến bút kí, tùy bút và cả kịch bản sân khấu đều rất giàu chất thơ. Nói đến lãng mạn trong văn học giai đoạn 1945-1975 là nói đến lãng mạn cách mạng. Nó tràn đầy niềm tin vào thực tại và tương lai, mô tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, “hướng về cuộc sống chưa đến nhưng nhất đính sẽ đến hoặc có thể đến”.

              Tố Hữu, một cái tên đã khá quen thuộc với hầu hết độc giả, ông sinh vào năm 1920 và mất năm 2002. Tên thật là Nguyễn Kim Thành, là người con xứ Huế. Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, giác ngộ cách mạng từ rất sớm. “Từ ấy”, đứa con tinh thần được Tố Hữu viết vào năm 1938. Đó là thời điểm Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương - một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ của tác giả. Ngoài ra nó còn đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn của Tố Hữu. Bài thơ “Từ ấy” được rút từ phần một, phần Máu lửa, được coi là bài thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong cả tập thơ gồm ba phần Máu Lửa, Xiềng Xích, Giải Phóng. Bài thơ vừa là tiếng lòng của một người cách mạng trên con đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của Bác. Còn thể hiện niềm vui và niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của chính tác giả. 
               Tiêu biểu nhất chính là đoạn đầu của bài thơ, thể hiện được rất rõ niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng Sản:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
                                                             (Nguồn:nguoihanoi.vn)
Hai chữ “Từ ấy” ở đầu câu thơ chỉ được cái mốc đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và cả trong cuộc đời thơ của Tố Hữu. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong. Tác giả đã sử dụng những động mạnh như “bừng”, “chói” để diễn tả một cách mạnh mẽ ảnh hưởng to lớn và vĩ đại của Đảng khiến cho con người ta bừng tỉnh trở lại sau những ngày tháng vô cùng tăm tối. Ánh sáng của Đảng được Tố Hữu cảm nhận tựa như “nắng hạ”, những ánh nắng rực rỡ, chói chang của mùa hè, chiếu đến tận sâu trong trái tim đang mang năng lượng sục sôi của tuổi trẻ. Bao quát hơn, Tố Hữu xem thứ ánh sáng ấy là “mặt trời”, đem lại sự ấm áp cho vạn vật, nguồn sống của muôn loài, “mặt trời chân lý” ấy xuất hiện kéo con người ta ra khỏi vùng tăm tối nguy hiểm, đem lại một lẽ sống mới cho cả dân tộc Việt Nam. Hai câu thơ sau mang đậm bút pháp lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng như “một vườn hoa lá” với đủ sắc hương của đất trời, “đậm hương” và “rộn tiếng chim”. Đã diễn tả được niềm vui sướng của tác giả ở buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản. Góp phần làm cho không khí chung của cả đoạn thơ trở nên sôi nổi, say mê, tràn đầy nhiệt huyết và niềm tin. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào, giọng điệu lại rất hào hùng diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động. Tố Hữu đã xuất sắc và thành công trong việc truyền tải đến cho độc giả hình tượng nhân vật tượng trưng cho hình ảnh con người thời đại đang tìm đường gải phóng dân tộc, giành lại độc lập, chủ quyền cho đất nước.

             Bước sang trang thơ của Quang Dũng, một nghệ sĩ tài hoa quê ở Hà Tây, vừa làm thơ, viết văn, vừa vẽ tranh, sáng tác nhạc. Xuất thân từ người lính, từng tham gia kháng chiến chống Pháp nhưng vẫn mang trong mình một tâm hồn của người nghệ sĩ. Một năm sau khi chuyển sang đơn vị mới vào 1948, nhớ đơn vị cũ nên Quang Dũng đã sáng tác nên “Tây Tiến”. Bao trùm cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về doàn binh Tây Tiến gắn với khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng không kém phần thơ mộng. Bằng bút pháp lãng mạn và giọng điệu bi tráng bài thơ khắc họa chân dung người chiến sĩ Tây Tiến hào hùng, hào hoa trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, hi sinh. Nỗi nhớ về lời thề quyết tâm chiến đấu của người chiến sĩ Tây tiến. Từ đó, tác giả ca ngợi hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến hào hùng, hào hoa, sẵn sàng vượt qua gian khó, tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ độc lập dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ được giao. 
              Như đã nói, ấn tượng nhất trong cả bài thơ có lẽ nằm ở đoạn cuối của bài, khi nỗi nhớ về lời thề quyết tâm chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến trở nên da diết hơn bao giờ hết:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước 
Đường lên thăm thẳm một chia phôi 
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy 
Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.”

                                                       (Nguồn:vanchuongphuongnam.vn) 

Quang Dũng đã dùng phụ từ phủ định đề khẳng định mạnh mẽ “không hẹn ước”, “chẳng về xuôi”. “Người đi không hẹn ước”, ra đi chiến đấu không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì nước. Song với đó, có thể người đi ở đây chính là tác giả, tác giả đã ra đi không hẹn ngày về lại đơn vị cũ. Trong khi đoàn binh hành quân càng về phía Tây càng xa cách, hi vọng ngày lặp lại càng mong manh. Mỗi bước chân hành quân đi lên, dốc đèo và những bản làng mờ sương lùi lại phía sau. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Do tinh thần bi tráng ấy mà “mùa xuân ấy” thành lập đoàn quân trở thành một mốc lịch sử ghi nhận công lao to lớn của những con người anh hùng quên thân mình vì nước. Các từ ngữ mà tác giả đã sử dụng ở ba câu trên như “mùa xuân ấy”, “một chia phôi”, hay từ láy “thăm thẳm” đều rất giàu sức gợi, cách nói giảm nói nói tránh để bớt đi sự đau buồn mà thay vào đó là niềm tự hào về chính đồng đội của mình. “Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi”, những trái tim và linh hồn ấy còn ở lại với Sầm Nứa, tan vào với núi sông nên sẽ bất tử với thời gian, họ ra đi mang theo cả nỗi nhớ của người ở lại. Cách nói chẳng về xuôi thể hiện thái độ bất cần, khinh bạc, thể hiện chất lãng tử kiêu hùng nên tinh thần hi sinh mang vẻ đẹp lãng mạn. Nỗi nhớ trào lên trong lòng da diết bởi lẽ có bao nhiêu kỉ niệm chiến đấu với đoàn quân kể từ mùa xuân ấy, do đó người đi xa mà tâm hồn vẫn gần gũi. Nhà thơ ở nơi này mà tâm hồn đã gợi lại nơi Sầm Nứa trên kia, vẫn gắn bó với đoàn quân. Sự phân thân ấy cho thấy tình đồng chí, đồng đội thắm thiết của nhà thơ.Giọng điệu trữ tình góp phần nói rõ tiếng nói tình cảm của nhà thơ. Đoạn thơ có hai giọng, giọng của đoàn binh được tác giả nói hộ và giọng của tác giả nên nội dung đa nghĩa, tạo ra vẻ đẹp ngôn từ. Đoạn thơ sử dụng bút pháp lãng để khắc họa tượng đài người lính Tây Tiến là những người chiến sĩ Tây Tiến hào hùng, hào hoa, yêu nước, tự nguyện, coi thường gian khổ quyết tâm thực hiện lí tưởng, vững tin vào cuộc sống chiến đấu và chiến thắng. Lời thơ hùng tráng, giàu nhạc, họa, nâng thêm chất sử thi của cả bài. Giọng điệu của bài thơ ca ngợi hình tượng, tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ độc lập dân tộc, hoàn thành nhiệm vụ được giao, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

               Qua cả hai đoạn trích, chắc chắn độc giả đã nhận thấy và cảm nhận được khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mãn xuất hiện rất rõ ràng. Hai đoạn trích nói riêng và hai tác phẩm nói chung đều giống nhau từ đề tài viết cho đến những hình ảnh hiện lên trong những vần thơ cũng mang đậm tính sử thi. Âm điệu thơ sôi nổi, nồng nàn, ngợi ca. Nhân vật trữ tình trong tác phẩm mang những phẩm chất tốt đẹp của người anh hùng thời đại, họ giàu lòng yêu nước, sống có lý tưởng cao đẹp, sẵn sàng cống hiến cho đất nước. Đó là những phẩm chất tốt đẹp mà con cháu đời nay cần phải noi theo, giữ gìn, bảo vệ và phát huy nó. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm vẫn có những chất riêng của từng nhà thơ. Ở “Từ ấy” của Tố Hữu, giọng thơ trong trẻo, hình ảnh tươi sáng, nhưng lại rất lãng mạn thể hiện rõ cái tôi trữ tình trong giai đoạn đấu tranh giành lại độc lập dân tộc, thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu, có tính trữ tình – chính trị. Ngoài ra nghệ thuật thơ đậm đà tính dân tộc ở thể thơ và ngôn ngữ giàu tính quần chúng. Còn ở “Tây Tiến”, Quang Dũng đã mượn lời thơ để ngợi ca đồng đội vượt qua gian khó, hy sinh để bảo vệ chủ quyền đất nước. Thể hiện rất rõ phong cách thơ Quang Dũng, giọng điệu bi hùng, chất hiện thực hòa quyện chất lãng mạn

              Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đã tạo nên vẻ đẹp riêng và giá trị bền vững cuat “Từ ấy” và “Tây Tiến”. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một đi không trở lại. Là những tiếng thơ bi tráng nhưng cũng không kém phần lãng mạn hào hoa giúp khắc ghi, lưu giữ lại cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử. Hai bài thơ đều mang khuynh hướng sử thi nhưng lại khắc họa một cách rất riêng phong cách của từng tác giả, đồng thời đều cùng đề cao chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam, có tính hiện thực cao. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng, và chắc có lẽ “Từ ấy” và “Tây Tiến” chính là một trong những mùa xuân không ngày tháng ấy.

Nhận xét

  1. Bạn có làm đầy đủ bố cục bài văn, lôi cuốn, hấp dẫn và chi tiết. Hệ thống luận điểm rõ ràng

    Trả lờiXóa
  2. Bố cục bài văn chặt chẽ , hợp lý , có luận điểm rõ ràng lành mạch . Đan xen được những cảm xúc của người viet, cách dẫn dắt tự nhiên. Tuy nhiên , phần phân tích thơ cần xuống dòng, chuyển ý để làm cho bài văn sinh động , hấp dẫn hơn

    Trả lờiXóa
  3. -Bài viết có nhiều hình ảnh sống động, liên kết chặt chẽ với phần phân tích. Khuynh hướng sử thi và lãng mạn được bạn khai thác sâu qua cả hai đoạn trích "Tây Tiến" và Việt Bắc.
    -Còn một số lỗi chính tả nhỏ do bạn type nhanh, câu cú còn dài xíu bạn nên ngắt bớt cho bài viết được gãy gọn

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét