38 Lê Đinh Thảo Tiên

 

(Hình ảnh minh hoạ cho bài thơ "Việt Bắc" bởi 18 Nguyễn Ôn Mỹ Linh)

Đề 1: bài giới thiệu tóm tắt các chặng đường thơ Tố Hữu  và qua bài Việt Bắc, hãy làm rõ Thơ Tố Hữu gắn bó với những mốc lịch sử quan trọng của đất nước"

https://doctailieu.com/phan-tich-bai-viet-bac-nhung-bai-van-mau-hay

BÀI LÀM

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.”

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)

     Khi đọc hai câu thơ trên ta không khỏi hừng hực niềm tự hào về cuộc kháng chiến chống Pháp đại thành công của nhân dân ta, và có một mảnh đất, nơi chính là cái nôi của Cách mang, nơi để thương, để nhớ lại trong lòng người chiến sĩ ngày ấy – Việt Bắc. Nhắc đến Việt Bắc lại khiến ta không thể quên thời kì “đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”, đó chính là “Việt Bắc”. Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình chính trị, mang trái tim và hồn thơ cách mạng, thơ của ông thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của con người Cách mạng. Tác phẩm “Việt Bắc” chính là kết tinh đẹp đẽ nhất qua mười lăm năm quân dân kề vai kháng chiến. Đặc biệt qua bài thơ, ta có thể thấy được thơ Tố Hữu gắn bó với những mốc lịch sử quan trọng của đất nước.

 


https://suckhoedoisong.vn/nha-tho-to-huu-cho-tin-o-long-tot-cua-ke-ac-16995305.htm
 

 

            Tố Hữu là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, lí tưởng lớn, tình cảm Cách mạng của con người Việt Nam hiện đại nhưng mang đậm chất dân tộc. Bản thân ông được giác ngộ cách mạng từ sớm, suốt đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Nếu coi cuộc đời là một dòng sông thì bờ bên này là con đường cách mạng và bờ bên kia là con đường thơ của Tố Hữu. Hai con đường này phát triển song song trong mọi chặng đường và phản ánh trung thực lịch sử cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ. Tố Hữu đã vẽ nên những bức tranh vô cùng tuyệt đẹp thông qua năm chặng đường thơ với những tập thơ: “Từ Ấy”, “Việt Bắc”, “Gió Lộng”, “Ra Trận” và “Máu và Hoa” và cuối cùng là “Một tiếng đờn” cùng với “Ta với ta”.

          Tập thơ “Từ Ấy” là chặng đường đầu tiên tương ứng với 10 năm đầu tiên hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Tập thơ được ra đời trong giai đoạn 1937-1946 khi đất nước đang trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp nhưng cũng đồng thời Cách mạng tháng tám thành công. Tập thơ được chia làm ba phần. “Máu lửa” gồm những bài sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân chủ, là tâm sự của người thanh niên “đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. “Xiềng xích” gồm những các bài sáng tác trong các nhà lao lớn ở Trung Bộ và Tây Nguyên. “Giải phóng” gồm những bài sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục đến những ngày đầu giải phóng vĩ đại của toàn dân tộc. Với cách sử dụng bút pháp lãng mạn độc đáo, giọng thơ sôi nổi thiết tha, ông mang một niềm vui sướng say mê khi được giác ngộ cách mạng, cảm thông với cuộc sống cơ cực của người dân nghèo, khơi dậy lòng căm thù, ý thức đấu tranh , ngợi ca Cách mạng và khẳng định niềm tin với chế độ mới. 


https://download.vn/cam-hung-lang-man-va-tinh-than-bi-trang-trong-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung-36839

          Chuyển giao đến chính là tập thơ “Việt Bắc” vào giai đoạn 1946-1954 khi đất nước phải kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai. Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến. Đây cũng là chặng đường thơ thể hiện quần chúng cách mạng mang tính sử thi đậm đà cùng với cảm hứng lãng mạn. Không những thế, chặng đường thơ giai đoạn này còn thể hiện rõ nét những tình cảm lớn như: tình quân dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi - miền ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân – lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên đất nước, tình cảm quốc tế vô sản … Tập thơ kết thúc bằng những bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng, biết bao tình cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong những giờ phút lịch sử.

        Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tập thơ “Gió Lộng” dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao. Trong những năm từ 1955 đến 1961 là khi đất nước đau nỗi đau chia cắt: miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa còn miền Nam ra sức đấu tranh chống đế quốc Mĩ. Tập thơ có sự kết hợp thể hiện cái “tôi” trữ tình công dân khi khác thác các đề tài lớn. Tập thơ có cái nhìn hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau khổ của cha ông, công lao của những thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng. “Gió Lộng” còn được viết thông qua hai nguồn cảm hứng lớn: đầu tiên là ngợi ca cuộc sống trên miền Bắc cùng niềm vui phơi phới của dân tộc trước công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong “30 năm đời ta có Đảng” và những tình cảm tha thiết, sâu đậm với miền Nam ruột thịt bộc lộ ý chí sắt đá giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước trong “Thì muôn đời, muôn kiếp không tàn”. Tập thơ có giọng hào sảng, ngợi ca non sông đất nước trong cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn.


        Bước vào thời kì cả nước cùng nhau đấu tranh chống Mĩ thống nhất đất nước (1962-1977) với hai tập thơ tiêu biểu là “Ra Trận” và “Máu và Hoa”. Cả hai tập thơ đều tập trung ca ngợi cuộc chiến đấu trên hai mặt trận tổ quốc. Cổ vũ tinh thần đấu tranh quyết liệt kiên cường của nhân dân. Nhà thơ đã ghi lại một chặng đường lịch sử gian nan. Đồng thời cũng khám phá và khẳng định được phẩm chất của con người VN trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Đồng thời thể hiện niềm tin, niềm tự hào phơi phới khi toàn thắng và là ca khúc khải hoàn ca ngợi cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại của dân tộc. Tập thơ  mang khuynh hướng sử thi, tổng hợp nội dung chính luận thời sự với cảm hứng anh hùng ca.

           Giai đoạn 1991 đến 1999 là khi đất nước đã thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” là hai tập thơ đánh dấu bước chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu. Ông tìm đến những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về cuộc đời và con người, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lí tưởng và con đường cách mạng. Giọng thơ Tố Hữu thời kỳ này đậm chất suy tưởng.

        Các chặng đường sáng tác của Tố Hữu song hành với những chặng đường lịch sử gian khổ, hi sinh những cũng đầy những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Nhận xét về thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên viết: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực cuốn hút ấy”. Đọc những vần thơ đầy tính chính trị nhưng ta không hề thấy khô khan, thi nhân đã thổi vào đó những nhịp điệu của tâm hồn một trái tim nhỏ bé lúc nào cũng rung lên thổn thức suy nghĩ cho vận mệnh của quê hương đất nước. Chính vì vậy, thơ ông vẫn làm người đọc say mê ca ngợi không chỉ từ cái chất trữ tình, nhẹ nhàng mộc mạc giản dị đơn sơ mà còn từ nét đặc sắc trong nghệ thuật biểu hiện của thơ ông.

 


https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/tinh-dan-toc-trong-bai-tho-viet-bac-cua-to-huu-lsA5fkcng.html 

 

           Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt bắc. Bài thơ gồm hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến; phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ với dân tộc. Ta có thể thấy rõ bài thơ “Việt Bắc”đã gắn bó với những cột mốc lịch sử quan trọng và cụ thể gồm: những ngày đầu kháng chiến gian khổ hy sinh, khí thế quân và dân Việt Bắc, chiến thắng lẫy lừng.

 

Những ngày đầu kháng chiến gian khổ hy sinh

 Những ngày đầu kháng chiến gian khổ hy sinh được thể hiện qua những dòng thơ tiêu biểu như: 

“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

        Nghe qua câu thơ có vẻ êm đềm nhưng trong mười lăm năm ấy, người dân Việt Bắc cùng với những chiến sĩ ra quân đã phải trải qua những ngày tháng gian khổ khó khăn. Mười lăm năm kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, súng vác trên vai, hành quân giữa rừng, san nhau từng hạt cơm, thay nhau từng đôi đũa, phúc cùng hưởng, hoạ cùng chia. 

“Mua nguồn suối lũ, những mây cùng mù” 

        Cho thấy thời tiết vô cùng khắc nghiệt của thiên nhiên ở Việt Bắc dẫn đến những gian nan vất vả của những ngày kháng chiến, biện pháp liệt kê cùng hai từ “những, cùng” cho thấy những khó khăn diễn ra dồn dập, liên tục. 

“Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

       Ở câu thơ này sử dụng biện pháp tiểu đối giữa hai vế. Một bên cho thấy đời sống thiếu thốn, gian khổ và một bên là lòng căm thù giặc oằn nặng trên vai. Hai hình ảnh đối xứng và kết hợp tạo nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng chung gian khổ,cùng mang một mối thù thực dân. Hay ta có thể thấy được những gian khó mà người chiến sĩ cùng người dân Việt Bắc đã phải trải qua ở hai dòng thơ: 

“Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

        Phép liệt kê được sử dụng tài tình đã gợi ra trước mắt ta những hình ảnh bình dị đời thường mà thân thương đến lạ. Đó là những khi mình và ta “chia củ sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”. Kháng chiến là vậy đấy, khó khăn, thiếu thốn vô cùng, cái ăn, cái mặc đều thiếu cả. Nhưng đối lập với hiện thực ấy, người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc vẫn cùng đồng cam cộng khổ, gắn bó, sẻ chia. Ta thấy rõ điều đó qua các từ “chia”, “sẻ”, “cùng” như càng nhấn mạnh thêm tình cảm gắn bó, thương yêu, san sẻ của những con người nơi đây.

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

        Hai dòng thơ cũng đủ thấy được khí hậu khắc nghiệt đến nỗi cháy da, cháy thịt ở Việt Bắc nhưng người mẹ vẫn hết lòng phục vụ cách mạng và kháng chiến, bẻ từng bắp ngô để nuôi quân. Hình ảnh thơ khắc sâu vào tâm trí người đọc sự lam lũ, vất vả, cơ cực cùng sự tần tảo, đức hy sinh cao quý của người mẹ Việt Bắc.

       Qua đoạn thơ, Tố Hữu đã đưa người đọc trở về với Việt Bắc một thời gian lao mà tình nghĩa, đồng thời bộc lộ được nỗi lòng của người ở lại. Những khó khăn, gian khổ khi các anh cán bộ và người dân Việt Bắc  phải trải qua nhưng không vì thế có thể hạ gục ý chí bất khất kiên cường quyết tâm chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.

 

Khí thế quân và dân Việt Bắc cùng chiến thắng lẫy lừng

      Để có thể bộc lộ được khí thế xông pha, ý chí bất khuất kiên cường quyết chống quân xâm lược của nhân dân ta, Tố Hữu đã gieo cảm xúc của mình vào những dòng thơ:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”

         Cái hùng tráng được mở ra qua những đợt càn quét, săn lùng của kẻ thù tàn bạo. Giống như một bầy sói khát máu, tanh lòng tìm kiếm mạng người ở khắp nơi. Thế nhưng giặc càng hung bạo bao nhiêu thì ý chí lòng dân mạnh mẽ bấy nhiêu và không chỉ có con người mà cả núi rừng, đất trời Việt Bắc đều cùng chung sức đánh giặc. Thiên nhiên lúc này đã trở thành đồng đội góp phần vào công cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng của dân tộc

          Vượt qua những gian nan, hiểm nguy tinh thần của con người nơi đây mới là khúc ca hùng tráng nhất:

“Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

      Những dãy núi trùng điệp trải dài như những bức tường thành kiên cố, vững chắc chống lại “sắt thép của quân thù”. Trước nguy hiểm khó khăn mà gan không núng, chí không mòn. Thiên nhiên cũng như những người bạn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường, trở thành thứ vũ khí lợi hại phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Không chỉ bảo vệ, thiên nhiên còn chiến đấu, vây lấy quân thù, dẫn dụ quân thù tiến vào thế công đã chực chờ sẵn.

      Có người bạn ấy, con người như bản lĩnh và vững vàng hơn trước mặt trận:

“Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”

         Tố Hữu đã tạo nên một không gian vừa hùng tráng vừa thơ mộng. Thơ mộng, tươi đẹp bởi đất trời thiên nhiên Việt Bắc mờ ảo trong làn sương phủ giăng kín lối. Rồi nhấn sâu vào tinh thần bi tráng của những trái tim đang hoà nhịp. Đó là trái tim yêu nước, hoà vào một kết tụ và toả sáng. Trái tim ấy đại diện cho con người, cho những con người yêu nước thiết tha, sâu nặng quyết chiến đấu hi sinh bảo vệ Tổ Quốc. Có thể thấy, với nghệ thuật trùng điệp của ngôn từ, tác giả đã dựng nên một tấm lưới che chắn khổng lồ như thiên la địa võng đặt giữa trời với “núi giăng”, “rừng tre”, “rừng vây”, “bốn mặt” hội tụ lại, hiên ngang biết bao hình ảnh của thiên nhiên nơi đây. Thiên nhiên chính là một đội quân hùng dũng không hề sợ sệt trước từng bước tiến công của quân thù.

 

 http://www.buctranhvancau.com/new-blog/2020/6/8/sapa-vietnam-terraced-rice-fields-rung-bc-thang-champs-de-riz-en-escaliers-hunh-anh-trn-schroeders-painting


Từ trong cánh rừng vững chắc giữ quân thù, sức mạnh đoàn kết toàn dân cùng ý chí quyết tâm, quyết chiến thắng đã tạo nên sức mạnh của nhân dân ta, làm nên những chiến công anh hùng: 

“Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang nhị Hà”

       Những địa danh đã in đậm những chiến tích oai hùng của dân tộc. Trên mảnh đất ấy có mất mát hy sinh, có mồ hôi rơi, có máu cùng đổ nhưng chưa bao giờ vơi đi nhiệt huyết và tinh thần của con người. Mảnh đất ấy cứ quấn quýt, nhớ thương mời gọi những kỉ niệm trong lòng người ra đi. Các địa danh cứ tiếp nối nhau “Phủ Thông” đến "đèo Giàng",… rồi vang lên trong ta tiếng ai đầy thân thương, nhung nhớ. Có phải nhớ q chăng, nhớ quá mà buộc thốt thành lời. Với thủ pháp nghệ thuật liệt kê, thi nhân đã làm cho nỗi nhớ trở nên mênh mang qua các điệp từ “nhớ” lại vừa rút ngắn khoảng cách của những chiến công tạo nên sự dồn dập của những bước đi chiến thắng. Những câu thơ ấy cứ như một điệu hồn rung chuyển băng băng đi vào lòng người bởi âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của thời đại.

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất nung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”

Chính thể thơ lục bát đã dựng nên cái hồn dân tộc trong những câu thơ. Âm hưởng của thời đại trào dâng sôi sục trong trái tim nóng chất chứa yêu thương. Câu thơ vang lên âm điệu rất đỗi tự hào, khí thế oai hùng. Hai chữ “của ta” khăng khái biết bao, rộng mở biết bao tình nghĩa. Con đường Việt Bắc hay chính là con đường Cách mạng, chiến thắng rực rỡ. Hình ảnh “đêm đêm rầm rập như là đất nung” đã thể hiện sức mạnh của quân và dân ta, sức mạnh được đo bằng thước đo của thiên nhiên hùng vĩ, rộng lớn. Nhạc điệu hào hùng của câu thơ được tạo nên bởi những rung ngân của âm “r” cùng với tính từ “điệp điệp” tạo nên cái muôn trùng của thiên nhiên. Thời gian cứ trôi vô tận, đoàn người hành quân vẫn ồ ạt tiến về phía trước. Cảm giác như trên con đường ấy, tinh thần yêu nước đã ra trận, đã tiên phong và trở thành thứ hoa tiêu dẫn dắt những bàn chân bước nhanh hơn tới ánh sáng của tự do và giải phóng.


 https://vtv.vn/doi-song/thien-nhien-trong-treo-cua-viet-nam-giua-troi-thu-20170920112150371.htm

 

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”

          Có lẽ, không ở đâu, không một nhà thơ nào khác ngoài Tố Hữu có thể viết nên những câu thơ hùng tráng đến thế, kiêu hãnh đến thế về người dân công hoả tuyến. Câu thơ mở ra trước mắt ta hình ảnh từng đoàn dân công nối tiếp nhau vận chuyển lương thực, quân nhu cho bộ đội, mà người bạn đồng hành với họ là chiếc xe đạp thồ đã thành huyền thoại. Bước chân của những con người anh dũng ấy, nhờ lòng quả cảm cùng quyết tâm giành lại giang sơn mà đã hóa thành “chân cứng đá mềm”. Chẳng phải vì thế mà Tố Hữu mới viết “bước chân nát đá” đó sao. Hai từ “nát đá” vừa gợi lên sức nặng của gánh hàng trên vai người dân công hỏa tuyến, vừa thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần hăng hái lên đường của họ. “Muôn tàn lửa bay” cũng là một hình ảnh rất đẹp. Trong đêm tối của rừng Việt Bắc, từng đoàn dân công đốt đuốc đỏ rực, tỏa ra ngàn ánh lửa như xua tan bóng đêm che phủ núi rừng. Dường như, ngọn lửa đỏ ấy cũng chính là ngọn lửa trong trái tim người anh, người chị dân công. Bốn câu thơ là bức tranh đẹp nhất, hùng tráng nhất về người chiến sĩ Vệ quốc quân và người dân công hỏa tuyến. Những đoàn quân hùng tráng, kiêu hãnh, mang sức mạnh to lớn như bước ra từ sử thi, thì những đoàn dân công cũng vậy. Phải chăng, khi đặt hai hình ảnh ấy cạnh nhau, Tố Hữu muốn nhắc đến tình cảm đoàn kết, gắn bó giữa các anh bộ đội và các anh chị dân công – những con người đã cùng nhau kề vai làm nên lịch sử. Đó chính là những hình ảnh hùng tráng, đậm chất sử thi về sức mạnh và vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến.

         Để đối đầu với đội quân xâm lược của bè lũ thực dân – đế quốc, bên cạnh sức mạnh con người, ta cũng cần có sức mạnh của phương tiện cơ giới:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

          Để nói về quá khứ tối tăm dưới ách đô hộ bạo tàn của thực dân, có lẽ không gì hợp hơn là từ “nghìn đêm”. Đó là đêm trường nô lệ, khi những khó khăn, bế tắc, đói nghèo, thiếu thốn bủa vây đất nước ta tựa như màn sương dày thăm thẳm. Nhưng giờ đây, “nghìn đêm” ấy đã thành quá khứ. Quân đội ta mới ngày nào chỉ có 34 chiến sĩ, mới bắt đầu từ những đội vũ trang nhỏ lẻ, giờ đây đã có những đoàn ô tô, xe pháo rùng rùng chuyển bánh. “Đèn pha bật sáng” xua tan đêm tối của núi rừng Việt Bắc, tựa như ánh nắng bình minh. Đó còn là hình ảnh ẩn dụ cho tương lai tươi sáng của dân tộc, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Bao trùm khắp đoạn thơ, đâu đâu ta cũng thấy những âm thanh hùng tráng, âm vang cùng những hình ảnh mĩ lệ, hào hùng như bước ra từ trang sử thi ngàn năm của dân tộc. Nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cùng giọng điệu thơ sôi nổi cũng góp phần gợi lên không khí chiến trận thuở nào. Nhưng đặc biệt nhất là ở chỗ, dẫu viết về chiến trường nhưng lời thơ không có chỗ cho đau thương, tang tóc, mà trái lại ngày ra trận đã trở thành ngày hội non sông, cả nước nô nức lên đường tựa như trẩy hội.

   Khí thế ấy, tinh thần ấy, sức mạnh ấy của quân và dân ta đã khiến cho kẻ thù khiếp sợ. Và từ đây, tin thắng trận liên tiếp bay về:

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

        Cả đoạn trích vốn đã được viết nên bằng giọng thơ sôi nổi, hào hùng, nhưng phải đến bốn câu thơ này thì niềm vui mới được diễn tả trọn vẹn nhất. Không vui làm sao được, khi tin chiến thắng “trăm miền” dồn dập báo về như thế kia mà! Khắp Tổ quốc của ta, trên cả giang sơn rộng lớn của ta từ Bắc chí Nam đâu đâu quân thù cũng khiếp sợ xin hàng, đồn bốt chúng tan tành dưới bước chân những người chiến sĩ. Từ những chiến dịch lớn nơi cực Bắc đất nước như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đến những trận đánh ở vùng đất phương Nam nơi Đồng Tháp, An Khê, đâu đâu cũng thắng lợi vẻ vang. Điệp từ vui được lặp lại bốn lần ở cả bốn câu thơ với những “vui về”, “vui từ”, “vui lên” tạo nhịp điệu sôi nổi, náo nức, vui tươi, diễn tả niềm hân hoan riêng của thi nhân hòa trong niềm vui chung của dân tộc. Ta có cảm tưởng như Việt Bắc chính là âm chủ trong bản giao hưởng chiến thắng ấy, bởi lẽ nơi đây chính là đầu não kháng chiến, là trái tim của Cách mạng.

        Khổ thơ khép lại, lời thơ đã hết nhưng những âm vang của Việt Bắc một thời hoa lửa vẫn còn vọng mãi nơi trái tim những tâm hồn đồng điệu. Đoạn thơ chính là bức tranh đẹp nhất, hùng tráng nhất, mang đậm màu sắc sử thi của núi rừng Việt Bắc thời kì kháng chiến chống Pháp. Ẩn chứa trong những vần thơ ấy là niềm hân hoan, vui sướng xen lẫn xúc động, tự hào của tác giả. Chính cảm xúc chân thành đã làm nên sức hút của khổ thơ, khi lời thơ giản dị, không gọt dũa quá cầu kì nhưng vẫn làm lay động trái tim người đọc.


 https://thptxuanhoa.vinhphuc.edu.vn/bai-viet-cua-gv/hinh-tuong-nguoi-linh-tay-tien-c7266-175653.aspx


        Thể thơ lục bát truyền thống mượt mà uyển chuyển, có vần có điệu cùng với kết cấu theo lối hát đối đáp của ca dao dân ca, bài thơ ôm chứa niềm lạc quan cùng tính dân tộc mạnh mẽ của con người. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện rõ nét tình yêu con người, yêu quê hương đất nước và tấm lòng yêu nước của Tố Hữu. Hình ảnh thơ giản dị quen thuộc, tiêu biểu cho cảnh và người Việt Bắc. Nhịp thơ và điệp cấu trúc, gieo vần, nhạc điệu khi nhanh khi chậm, khi trầm lắng tha thiết, khi dồn dập hào hùng, chính những điều đó đã tạo nên phong cách thơ trữ tình chính trị rất riêng của Tố Hữu. Quả thật “Việt Bắc” vừa là khúc hùng ca bi tráng, vừa là khúc tình ca dịu ngọt, là sự giao thoa bay bổng của vẻ đẹp con người và thiên nhiên. Quả thật thông qua bài thơ Việt Bắc, ta có thể thấy được thơ Tố Hữu gắn bó mật thiết với từng cột mốt lịch sử quan trọng của đất nước. Người kể sử bằng thơ đã mang lại cho độc giả thứ cảm xúc đẹp đẽ tuyệt vời và rung động sâu sắc đến tận đáy tim.

 

       “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường. Nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo. Còn Tố Hữu - anh chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên). Với Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ là mảnh đất của tổ quốc mà nó còn là mảnh đất nung đốt những tình cảm tốt đẹp – tình quân dân mà có lẽ bất cứ ai cũng phải ngậm ngùi khi nghĩ về nó. Để những dòng thơ lắng tình, đất nước mãi trở thành những nhịp nâng lên thứ tình cảm đẹp đẽ và cao quý này cho hôm nay và mãi về sau.

 


Nhận xét

  1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  2. Đánh giá chung Tiên nói hay, xoáy vào những mốc lịch sử văn chương mà đề yêu cầu. Tuy nhiên phần đầu khi bạn tách câu thơ để nhận xét thì cần nêu luận điểm của từng câu sẽ giúp bài lôi cuốn, hấp dẫn hơn nữa.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét