37 Trần Ngọc Thủy Thương

(tranh ảnh minh họa bài "Việt Bắc" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)

ĐỀ 5: Phân tích khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong thơ Tố Hữu qua đoạn thơ thứ 9 của bài “Việt Bắc”:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
(Việt Bắc-Tố Hữu)

Bài làm

          Trong mỗi người chúng ta khi nhắc đến Tố Hữu, ai cũng sẽ biết đó là một nhà thơ trữ tình Cách Mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông được sinh ra trong gia đình nhà nho nghèo, cha thích sưu tầm ca dao, tục ngữ, mẹ thì thuộc nhiều ca dao, dân ca Huế. Nên từ tấm bé trong ông đã được thấm nhuần bản sắc của dân tộc ta. Điều đó được thể hiện qua cách hành văn và phong cách nghệ thuật của ông. Tố Hữu sống trong thời đại của những phong trào đấu tranh nên các tập thơ của ông luôn gắn bó với vô số các mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Và các tập thơ ấy cũng là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống của quân dân ta trong kháng chiến. Một trong số các bài thơ ông sáng tác thì bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ. Từ nội dung đến nghệ thuật, “Việt Bắc” đều mang đậm tính dân tộc và đại chúng. Bài thơ là một bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên, con người, cuộc sống, lao động và chiến đấu của chiến khu Việt Bắc trong suốt 15 năm. Và để hồi tưởng lại về những ngày còn ở Việt Bắc ông đã thể hiện chúng ở khổ thơ thứ chính của bài thơ. Khổ thơ này là khi người về xuôi nhớ về không khí sôi nổi của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc và niềm vui trước những chiến công liên tiếp của quân và dân ta.

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
(Việt Bắc-Tố Hữu)

          Việt Bắc - căn cứ cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây cũng là địa danh gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc ta. Vì Thơ Tố Hữu luôn luôn đề cập đến những vấn đề quan trọng liên quan đến vận mệnh dân tộc nên khi viết tác phẩm này chúng ta sẽ thấy đây là một đề tài quen thuộc, nhưng Tố Hữu đã thành công trong việc đánh vào cái mới trong tình cảm quyến luyến của buổi biệt ly phải xảy ra này. Sự kiện này diễn ra sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Những ngày tháng qua, con người của miền đất mến yêu này đã cùng nhau kề vai sát cánh trong cuộc khánh chiến, những cán bộ và nhân dân Việt Bắc ở miền ngược và miền xuôi này đã tạo nên nhiều kỉ niệm đẹp nên để lưu giữ nó Tố Hữu đã sáng tác “Việt Bắc”. Đoạn trích này nằm ở đoạn mở đầu trong phần I của bài “Việt Bắc”. Sau khổ tám là những nỗi nhớ của tác giả khi nhắc lại những ngày chiến dịch, quân và dân ta chiến đấu chống các trận càn quét của giặc ở chiến khu thì khổ thơ này nói về giai đoạn tiến công, giành thắng lợi của quân và dân nước ta. Tám câu đầu nói về cảnh ra quân vô cùng hùng hồn:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

          Câu thơ đầu tiên nhắc đến không chỉ đơn thuần là những con đường ở Việt Bắc mà là con đường của cách mạng, kháng chiến đầy máu lửa và những chiến công hiển hách. Từ láy ở câu thơ thứ hai là “rầm rập” cùng với biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng, so sánh cách di chuyển của quân đội ta như là đất rung. Khắc họa âm thanh cho thấy hào khí rung chuyển đất trời của cả một dân tộc đang hành quân ra trận. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” nói lên sự tinh nhuệ, sự lớn mạnh cả về chất lẫn về lượng của bộ đội ta. Điều này làm cho chúng ta có cái nhìn rộng hơn về lực lượng của dân tộc ta lúc đó. Câu thơ thứ tư nói lên vẻ đẹp những người lính, người anh hùng được “ánh sao” là lý tưởng chiến đấu soi đường chỉ lối, làm cho người đọc cảm nhận được chất sử thi và cảm hứng lãng mạn mà tác giả đưa đến. Từ “đỏ đuốc” trong câu thơ đã được sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ để hướng vận động từ hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. Hình ảnh “đỏ đuốc từng đoàn và muôn tàn lửa bay” làm cho câu thơ vừa hiện thực, vừa bay bổng. Nghệ thuật nói quá “bước chân nát đá” nói lên sức mạnh vô tận, mô tả vẻ đẹp của những đoàn dân công. Nhờ đó ta thấy dáng vẻ của con người Việt Nam vô cùng oai phong, lẫm liệt. Đó là những con người làm nên điều kỳ diệu của thế kỷ 20 - thế kỉ của những cuộc đấu tranh. Họ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc kháng chiến nhân dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.. Và sang câu thơ thứ bảy ta thấy được hình ảnh “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày, đèn pha bật sáng” thể hiện “ngọn đèn pha” đã đánh tan lớp sương dày”. Từ đó gợi lên đươc sự tương phản, tả thực. Từ hình ảnh này chúng ta thấy được tương lai tươi sáng, thấy được hy vọng đang lóe lên trong mỗi người lính lúc ấy. Tác giả đã khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật tương phản đối lập giữa 2 câu thơ. Dù “thăm thẳm sương dày nhưng họ vẫn hy vọng vào “ngày mai lên” đem lại một tương lai mới tốt đẹp hơn. Tác giả sử dụng bút pháp hiện thực và lãng mạn vô cùng thành công. Tám câu đầu của khổ thơ này hiện lên cảnh ra quân hoành tráng, đầy khí thế tấn công và thể hiện niềm tin tất thắng của dân tộc ta. Chúng ta càng đánh lực lượng càng mạnh. Quân đội ta đã giải quyết được những khó khăn để vươn lên. Chúng ta đã có những đoàn binh ra tuyền tuyến, pháo binh ra mặt trận và ở đó là hy vọng vào một “ngày mai” huy hoàng, tráng lệ về sự tự do, đang kêu gọi dân tộc Việt Nam.

“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

          Bốn câu cuối của khổ thơ nói về khúc ca khải hoàn, khi mà quân và dân ta đã mang về chiến thắng, danh dự cho cả dân tộc ta. Nhịp thơ nhanh, dồn dập, sảng khoái, những từ “vui” điệp đi điệp lại trong cả bốn dòng thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: “vui về”, “vui từ”, “vui lên”. Đó là tiếng reo vui của hàng triệu trái tim của mọi con người Việt Nam khi miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng. Nghệ thuật liệt kê: Tố Hữu chỉ ra hàng loạt các địa danh trên đất nước Việt Nam. Những dòng thơ là diễn ca lịch sử, ghi lại những địa danh, những trận đánh lớn trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Ta thấy được chất lãng mạn có trong khổ thơ của tác giả, làm thơ như một bài ca, khúc ca mang trong đó bao tình cảm, niềm hân hoan. Câu đầu tiên trong bốn câu cuối này khái quát niềm tự hào về chiến thắng, ba câu còn lại bộc lộ niềm vui được lan tỏa tới những địa danh liên tiếp theo bước đi của chiến thắng. Bốn câu cuối đã thể hiện sinh động không khí náo nức say mê của quân dân Việt Bắc trong ngày chiến thắng. Toàn bộ đoạn thơ là hình ảnh những con đường Việt Bắc và những hình ảnh mạnh mẽ của dân quân ta trên đường ra trận. Những bức tranh rộng lớn, hùng tráng, kỳ vỹ đậm chất sử thi ấy vừa là hình ảnh thực trong kháng chiến, vừa là biểu tượng cho con đường cách mạng đã nhiều lần được nhắc đến trong thơ Tố Hữu.

          “Việt Bắc” là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Nhân vật trữ tình là những con người đại diện cho dân tộc, mang tầm vóc thời đại, có phẩm chất cao đẹp. Thơ Tố Hữu có cảm hứng lãng mạn, hướng về tương lai tươi sáng khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và say mê với con đường cách mạng. “Việt Bắc” là bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Kết cấu theo lối đối đáp, tác giả đã sáng tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc, dạt dào. Đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến, có kẻ ở người đi. Cùng với âm điệu ngọt ngào, êm ái, trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru khiến người đọc như được bước vào một thế giới dịu dàng, đằm thắm. Thể thơ lục bát được Tố Hữu sử dụng vừa tạo ra sự thống nhất hoàn hảo vừa biến hóa đa dạng, phong phú. Nhịp thơ, điệp cấu trúc, gieo vần, nhạc điệu lúc nhanh, lúc chậm, lúc tha thiết nỗi nhớ, lúc hào hùng dồn dập. Từ đó làm những hình ảnh thơ trở nên dung dị quen thuộc, tiêu biểu cho cảnh vật và con người Việt Bắc.

          Bài “Việt Bắc” đã thể hiện rõ hồn thơ Tố Hữu mang đậm màu sắc dân tộc, gắn liền với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cùng với tình cảm gắn bó và lời hứa thủy chung son sắt. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc ta. Những tác phẩm như “Việt Bắc” là vốn quý cho học sinh chúng ta học tập truyền thống yêu nước và giữ gìn trọn vẹn lãnh thổ dân tộc Việt Nam.

Nhận xét

  1. Con hỗ trợ các bạn trong lớp đăng bài đúng hạn nha!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Dạ cô, con sẽ cố gắng liên hệ hỗ trợ các bạn ạ.

      Xóa
  2. Bài viết của bạn có nội dung phù hợp với đề tài,ý khá phong phú,sáng tạo.Lập luận chặt chẽ có kèm hình ảnh minh họa sắc nét full HD 4ka trích nguồn đầy đủ rõ ràng.Nhớ xem lại phần chia bố cục để làm bật lên từng cái luận điểm nha em ơi ^^ 13 điểm liềnnn

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết diễn đạt đúng phong cách ngôn ngữ khoa học, văn phong phong phú, đầy đủ luận điểm luận đề. Tuy nhiên, các luận điểm luận đề thể hiện chưa rõ. Với mỗi luận điểm của đoạn, bạn nên cho nó đứng thành 1 đoạn cỡ 2 dòng, bổ sung thêm câu từ để luận điểm dược rành mạch, rõ ràng hơn.

    Trả lờiXóa
  4. Diễn đạt mạch lạc, bố cục tốt, mượt mà. Tuy nhiên nên để luận điểm lên trước mỗi đoạn thơ để bài viết rõ ràng hơn.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét