29 Võ Minh Quân

(tranh ảnh minh họa bài "Việt Bắc" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)
                                          
ĐỀ 3: Trình bày cách hiểu của anh (chị) về nhận định của Xuân Diệu: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Hãy làm rõ quan điểm của mình qua 1 vài đoạn thơ tiêu biểu trong bài “Việt Bắc”

Bài làm

          Thơ trữ tình-chính trị không phải là một thể loại hoàn toàn mới lạ đối với tủ sách văn chương Việt Nam. Trên thế giới, trước Tố Hữu đã có nhiều nhà thơ trữ tình-chính trị nổi tiếng. Đối với văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, thơ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Trần Tuấn Khải,… và phong trào thơ ca Xô Viết- Nghệ Tĩnh là những sáng tác mang cảm hứng chính trị, tuy vẫn nằm trong thi pháp cổ điển nhưng vẫn mang những đổi mới nhất định. Tố Hữu vừa kế thừa truyền thống vừa nâng thơ trữ tình-chính trị lên một trình độ nghệ thuật cao hơn. Tố Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một tiếng nói trữ tình với những cảm xúc của một cái “tôi” hoàn toàn mới mẻ.

          Trữ tình và chính trị là hai khái niệm văn học rất khác biệt nếu không muốn nói là trái ngược hoàn toàn. Trữ tình là bộc lộ ý thức, tình cảm, cảm xúc,… chủ quan của tác giả mà người đọc cảm nhận được một cách trực tiếp hay gián tiếp. Còn chính trị là những khái niệm khô khan được thể hiện dưới hình thức của những khẩu hiệu mang tính chất cổ vũ, kêu gọi, tuyên truyền,… Vấn đề của chính trị là vấn đề của lí tưởng, là gắn với những nhiệm vụ của sản xuất, chiến đấu,…
  
          Các khái niệm chính trị tưởng không có gì là “hồn thơ” cả, nhưng với Tố Hữu, trước những vấn đề chính trị của đất nước, trái tim nhà thơ vẫn xúc cảm thật sự, tâm hồn chan chứa tình cảm và vô cùng nồng nhiệt. Chính vì thế, lí tưởng cách mạng, đời sống cách mạng, những sự kiện chính trị đã trở thành nguồn cảm xúc lớn, được biểu hiện bằng giọng tâm tình ngọt ngào tha thiét hay rắn rỏi, dõng dạc mang âm hưởng sử thi hùng tráng khiến Xuân Diệu phải thốt lên: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ thơ rất đỗi trữ tình”.   
       
           Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành tựu lớn lao của đời thơ Tố Hữu. Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng. Ở tập thơ Từ Ấy (1937-1946) là chặng đường đầu tiên trong đời thơ Tố Hữu, đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên trẻ quyết tâm đi theo tiếng gọi của Đảng. Qua đó, ca ngợi chiến thắng của cách mạng, nền độc lập, tự do của Tổ Quốc, khẳng định niềm tin vững chắc của nhân dân vào chế độ mới. Tập thơ Việt Bắc (1946-1954) là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến, với tấm lòng yêu thương thắm thiết và cảm phục sâu xa, Tố Hữu đã miêu tả và ca ngợi anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ, em liên lạc,… Ca ngợi Đảng và Bác Hồ nhằm khơi nguồn và phát huy sức mạnh của quân dân ta đánh tan kẻ thù. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tập thơ Gió lộng (1955-1961) hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau khổ của ông cha, công lao to lớn của thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của cách mạng. Hai tập thơ Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977) lại âm vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui toàn thắng.   

          Thơ Tố Hữu còn mang đậm nét trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình-chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành yếu tố tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến (Tiếng ru, Bác ơi, Quê mẹ,…)

          Việt Bắc là kết tinh của phong cách thơ trữ tình-chính trị, là thứ văn chương cách mạng “chí nghĩa chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc” (Xuân Diệu). Thi phẩm mang tính chính trị gắn liền với sự kiện lịch sử, được ra đời sau cuộc chia tay giữa những người kháng chiến với nhân dân Việt Bắc tháng 10/1954. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, căn cứ địa cách mạng, nhân dân Việt Bắc,..)
Nhưng Việt Bắc cũng rất đỗi trữ tình
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tinh bấy nhiêu…”

          Nỗi nhớ sâu đậm, tràn trào, mênh mang, lan tỏa cả không gian và thời gian của “ta” và “mình”, người đi kẻ ở gắn liền với tình cảm sắt son chung thủy- nỗi nhớ về cảnh và người, nỗi nhớ về những kỉ niệm… Mối quan hệ gắn bó ấy đã được Chế Lan Viên khái quát qua câu thơ nổi tiếng: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học I tờ
Đồng khuya đuốc sáng những ngày liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Cùng với nỗi nhớ, cảnh và người Việt Bắc hiện lên với những chi tiết vừa chân thực, giản dị, lộng lẫy, tươi tắn, thơ mộng, giàu sức rung động lòng người. Từ những cảnh vật thân thương tới những sinh hoạt thường nhật hay địa danh quen thuộc đều thể hiện tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương xao xuyến của người ra đi với cảnh và người Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đem rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc cùng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

           Đoạn thơ tràn ngập niềm vui hân hoan, mang đậm nét sử thi hùng tráng, các thủ pháp điệp từ, điệp ngữ đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho khúc hùng ca, tái hiện lại không khí hào hùng, khí thế quyết tâm giành lại độc lập dân tộc từ tay thực dân Pháp trong cuộc kháng chiến.

           Xưa nay, có nhiều người làm thơ chính trị nhưng hiếm có ai đạt được thành công vang dội như Tố Hữu. Sức cuốn hút của Tố Hữu là sự hòa quyện giữa tình cảm,lẻ sống và tư tưởng. Chất thơ của Tố Hữu lại được thê hiện qua một giọng điệu riêng biệt rất dễ nhận ra. Đó là giọng tâm tình ngọt ngào, giọng của tình thương mến. Dù sử dụng đa dạng các thể thơ, song Tố Hữu lại đặc biệt thành công với thể loại lục bát. Lối ngắt nhịp, gieo vần trong thơ Tố Hữu rất tự nhiên, êm dịu khiến cho giọng thơ trầm bổng, dễ đọc, dễ thuộc. Bài thơ Việt Bắc ẩn chứa một tình cảm lớn, tình cảm của nhân dân cách mạng và cán bộ cách mạng, nhưng lại được viết theo lối hát đối đáp quen thuộc của ca dao. Tố Hữu chọn cách nói người yêu với người yêu, đặc biệt là hai chữ “mình-ta” đầy ngọt ngào, êm dịu. Vì thế, toàn bài thơ trở thành khúc hát ân tình, đằm thắm với tình thơ tha thiết, giọng thơ ngọt ngào, nhịp nhàng như lời ru. Bài thơ đã đưa độc giả vào một thế giới tâm tình đầy lãng mạn, xúc cảm, đầy ân nghĩa. Đó là phong cách thơ trữ tình-chính trị đặc biệt của Tố Hữu.

           Tóm lại, Tố Hữu đã xuất sắc đem vào thơ cách mạng một tiếng nói trữ tình đầy lãng mạn, những xúc cảm chân thành, mãnh liệt tạo dựng được một nguồn năng lượng lan tỏa rộng khắp và rung cảm với độc giả. Càng về sau, lối thơ trữ tình-chính trị của Tố Hữu càng thiên về khuynh hướng sử thi. Nhân vật trữ tình-chính trị được nâng lên tầm vóc của thời đại, nhiều khi còn được thể hiện bằng bút pháp huyền thoại hóa. Tố Hữu đã thành công trong việc kế thừa truyền thống thơ ca yêu nước và xuất sắc trong việc phát triển trong thời đại mới. “Nếu Chế Lan Viên làm sang cho thơ Việt Nam thì Tố Hữu làm giàu cho thơ Việt Nam” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tố Hữu xứng đáng là “lá cờ đầu” của nền văn học hiện đại nước nhà.



Nhận xét

  1. Theo tui thì, mở bài của Minh Quân nhấn trọng tâm vào phần giải tỏ thơ trữ tình - chính trị quá sâu. Mà cái chính là phân tích, chỉ ra trong thơ Tố Hữu nói chung và Việt Bắc nói riêng thì chưa có. Nhưng giọng văn rất thuyết phục và cung cấp được vốn kiến thức cho độc giả là một điểm cộng. Hình thức đúng và dễ nhìn nhưng thiếu hình ảnh minh họa nhoa ^^

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét