26 Nguyễn Hoàng Phúc

(tranh ảnh minh họa bài "Tây Tiến" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)

ĐỀ 01: Đọc đoạn 1 trong bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng), có ý kiến cho rằng: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng. Song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Ý kiến khác lại khẳng định: Đoạn thơ vẽ lên bức tượng đài về người lính Tây Tiến kiêu hùng, bi tráng. Song cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về hai ý kiến trên.

Bài làm

          Mọi cuộc chiến tranh qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những người anh hùng vô danh đã ngã xuống vì dân tộc. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng, nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc những dáng hình chiến binh hào hùng, ghi tạc mãi những chiến công vang dội vì một dân tộc độc lập. Biết bao nhà văn, nhà thơ đã lấy hình ảnh những người anh hùng đó làm nguồn cảm hứng sáng tác của mình. Đến với thơ Quang Dũng, ta cũng bắt gặp bức tượng đài những người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp, nổi bật nhất chính là bài thơ đã làm nên tên tuổi của hồn thơ Quang Dũng – bài thơ Tây Tiến, bài thơ là một bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, thơ mộng, ở giữa đó là hình ảnh người lính Tây Tiến oai hùng, lãng mạn. Chỉ qua việc đọc đoạn 1 bài thơ, có ý kiến đã cho rằng: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng. Song cũng đầy dữ dội, khắc nghiệt. Ý kiến khác lại khẳng định: Đoạn thơ vẽ lên bức tượng đài về người lính Tây Tiến kiêu hùng, bi tráng. Song cũng rất đỗi lãng mạn, hào hoa.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

          Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa, đa tài, biết viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… ở lĩnh vực nào cũng ghi dấu ấn thành công của ông, nhưng nổi bật hơn cả vẫn là thơ. Quang Dũng trước hết là một tiếng thơ tinh tế, một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và hào hoa. Ông rất thành công với những bài thơ viết về người lính và quê hương “xứ Đoài mây trắng”. Trong số những bài thơ xuất sắc của ông có bài “Tây Tiến”. Tây Tiến là tên một đơn vị bộ đội thành lập vào đầu năm 1947 với lực lượng chủ yếu là các thanh niên trí thức Hà Nội, mà trong đó Quang Dũng làm đại đội trưởng. Nhiệm vụ của đơn vị là kết hợp cùng với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào và bảo vệ biên giới Việt – Lào. Bài thơ được sáng tác trong nỗi nhớ những người đồng đội và cảnh núi rừng Tây Bắc khi Quang Dũng đã chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh. Bài thơ ban đầu có tên “Nhớ Tây Tiến” và sau đổi tên thành “Tây Tiến” in trong tập “Mây đầu ô” (1986).

      Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu thơ mang đề tài, cảm hứng chủ đạo của toàn đoạn thơ, cảm hứng ấy chính là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng về đoàn binh Tây Tiến và miền Tây Bắc một thời đã qua. Vì nhớ mà Quang Dũng đã cất lên:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

         Ngay từ câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dụng câu cảm thán để gợi dậy cảm xúc cho cả đoạn. Câu thơ là tiếng gọi chân thành, tha thiết thể hiện nỗi nhớ cồn cào, da diết về rừng núi Tây Bắc. Sông Mã là cách nói hoán dụ tượng trưng cho địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến nay đã xa rồi. Hai chữ “xa rồi” chính là nguyên cớ khơi dậy những cảm xúc chân thành của nhà thơ, nó vừa gợi ra cảm giác tiếc nuối, hẫng hụt, vừa tạo điểm nhấn cảm xúc. Phải chăng khi tất cả đã xa rồi thì ta mới thấy nhớ, thấy thương rồi bật thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi thân thương ấy như vút lên từ hiện tại, vượt qua không gian, thời gian bay về quá khứ, vang vọng vào những con sông, ngọn đồi, rừng cây Tây Bắc, nơi những nỗi nhớ ấy đang ẩn hiện trong tâm tưởng thi nhân.

        Ở câu thơ thứ hai, điệp từ nhớ được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ cồn cào, dồn dập từng hồi đang quay quắt, chầu chực ùa vào tâm trí Quang Dũng. Vần “ơi” ở câu trên kết hợp cùng với từ láy “chơi vơi” với thanh bằng đã diễn tả một nỗi nhớ vừa sâu lắng, vừa mênh mang giữa hai bờ hư thực, nỗi nhớ ấy không rõ ràng, không thành hình, thành khối mà cứ lẫn khuất trong hư ảo, vô định.

      Qua hai câu thơ đầu ta đã thấy được nỗi nhớ mãnh liệt, vừa sâu lắng lại vừa mênh mang, vô định hình của tác giả, những đối tượng của nỗi nhớ cũng dần dần hiện lên. Quang Dũng nhớ sông, nhớ rừng chính là nhớ về mảnh đất Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc, những tên đất, tên làng nơi căn cứ địa của đoàn binh Tây Tiến hoạt động. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” chính là nhớ về những người đồng đội, những người lính đã cùng gắn bó với tác giả trên con đường cách mạng gian khổ. Từ đó đề tài và cảm hứng chủ đạo là nỗi nhớ của toàn bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng đã bộc lộ rõ nét và xuyên suốt cùng hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc và nét đẹp của người lính Tây Tiến.

       Có thể nói, nỗi nhớ “chơi vơi” của hai câu thơ đầu chính là chiếc chìa khóa để mở cửa cho một thế giới hoài niệm của tác giả ở những câu thơ tiếp theo. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trong hành trình sáng tạo, các nhà thơ thường xem kỷ niệm giống như cánh đồng nghệ thuật, ở đó mỗi kỷ niệm sẽ nở ra những bông hoa thơ ngạt ngào nỗi nhớ. Nhà thơ hút những nhụy hoa ấy mà nhả ra mật ngọt ngôn từ”. Quang Dũng có lẽ cũng đã dùng nỗi nhớ để viết về Tây Tiến, men theo những dấu chân hoài niệm của nhà thơ, người đọc như đang cùng Quang Dũng trở về với miền Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng mà cũng không kém phần dữ dội khắc nghiệt. Ẩn hiện trong đó chính là vẻ đẹp người lính Tây Tiến hào hoa, hào hùng, được thể hiện qua sáu câu thơ tiếp theo.

      Nỗi nhớ ào ạt ùa về trong kỉ niệm nhà thơ Quang Dũng, trước hết là nhớ về chặng đường hành quân gian khổ đi qua những nơi khí hậu vô cùng khắt nghiệt:

“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi ”

       Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát xuất hiện trong hai câu thơ chính là những nơi mà đoàn quân đã đi qua với những giọt mồ hôi để lại trên đường. Được biết địa danh Sài Khao nằm ở xứ Thanh, là nơi có địa hình cao chót vót, đi đôi với nó là khí hậu nhiệt độ vô cùng thấp, từng lớp sương giăng phủ kín con đường. Cả hai câu thơ đều được ngắt nhịp 4/3, câu thơ thứ nhất nhịp nghỉ rơi vào từ “lấp” và kết thúc câu bằng từ “mỏi”. “Lấp” là một động từ mạnh gợi sự hình dùng về cảnh tượng màn sương dày đến nỗi như phủ kín, như nuốt chửng cả đoàn quân, trong những đêm hành quân có khi họ còn không thể nhìn thấy rõ mặt nhau. Chữ “mỏi” là tính từ gợi ra sự mệt mỏi, rệu rã của những người lính khi phải đối diện với cái lạnh, cái khắt nghiệt của nơi hoang vu hẻo lánh. Nhưng ẩn trong từ “mỏi” ấy lại gợi lên vẻ kiên cường, lòng dũng cảm, tinh thần lạc quan, sẵn sàng đối mặt với gian khổ của những người lính Tây Tiến. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần thì “không mỏi”. Bởi đó chính là ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc, vì nhân dân của những chàng trai Hà thành. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh màn sương vào bài thơ, đây có lẽ là một hình ảnh khó quên của những người lính khi đến với vùng núi Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ. Trong “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã từng nhắc đến “sương”:

“ Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
      Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương ”

      Sự khác biệt có lẽ là nếu nhà thơ Chế Lan Viên nhắc đến màn sương với một niềm yêu thương tha thiết về một bức tranh thơ mộng, mơ màng chẳng thể quên, thì đối với những người lính đó lại là nỗi nhớ, nỗi ám ảnh về những đêm sương lạnh buốt đến rét da rét thịt, là những cơn sốt rét rừng đến “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, nhưng sâu trong đó cũng chính là chí khí, tinh thần lạc quan, ý chí vượt qua mọi hoàn cảnh của những người lính, hình ảnh đó ta cũng từng bắt gặp trong người lính của Chính Hữu:

“ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
(Đồng Chí)

       Nhưng chính nhờ thiên nhiên khắc nghiệt như thế, những người lính Tây Tiến lại sáng lên nét hào hoa, hào hùng.

       Nếu như câu thơ đầu mang không khí, ngột ngạt lãnh lẽo thì đến với câu thơ thứ hai “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” lại giàu tính chất biểu cảm làm cho mọi gian khổ gần như tan biến. Những thanh bằng liên tiếp “hoa về trong đêm hơi” tạo cảm giác trầm bổng, nhẹ nhàng, êm ái như xoa dịu đi những mệt mỏi của người lính ở chặng đường Sài Khao. Cách dùng từ của Quang Dũng trong câu thơ rất độc đáo, ông không dùng từ “hoa nở” mà thay bằng “hoa về”, không nói “đêm sương” mà nói “đêm hơi”. Đúng như nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng nói: “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi”. Và phải chăng sức gọi ở đây được tạo nên từ chữ hai chữ “hoa về” đã tạo nên một trường liên tưởng phong phú cho người đọc. “Hoa về” có thể hiểu là những bông hoa nở rộ trong đêm sương lạnh Mường Lát, nhưng chữ “về” lại khiến ta hình dung về những đóa hoa đang dậy lên mùi hương nối gót cùng những bước chân người lính quay về. Không dừng lại ở đó, có người lại cho rằng, “hoa” ở đây lại chính là những bó đuốc trên tay người lính Tây Tiến, những ánh đuốc lung linh, lập lờ, huyền ảo trong đêm sương như những bông hoa đỏ rực đồng hành cùng đoàn binh Tây Tiến trên đường trở về. Dù hiểu theo cách nào đi nữa, thì hình tượng người lính cũng trở nên đẹp đẽ, hào hoa. Tuy vẫn còn đang giữa chốn rừng núi khắc nghiệt, nhưng với cảm hứng lãng mạn của nhà thơ Quang Dũng, hiện thực gian khổ ấy lại được thi vị hóa làm cho hai câu thơ trở nên nhẹ nhàng, êm ả, làm bật lên hình ảnh khí hậu Tây Bắc tuy khắc nghiệt nhưng cũng không kém phần thơ mộng.

     Tiếp nối những khó khăn của đoàn quân khi đối mặt với khí hậu của vùng núi Tây Bắc, ta lại đến với sự chao đảo, mỏi mệt của đoàn quân khi phải vượt qua địa hình dốc cao hiểm trở:

“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

     Câu thơ đầu “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với nhịp ngắt 4/3 đã chia câu thơ thành hai vế, đầu mỗi vế là điệp từ “dốc” tạo nên hình dung về sự trùng điệp của những con dốc. Con đường hành quân sao lại khó khăn đến thế, đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc không ngừng nghỉ. Những từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” là những từ láy tượng hình đặc sắc đã diễn tả một cách đắc địa sự hiểm trở của địa hình cao nhiều đèo dốc của vùng núi cao nhất nước ta. Từ “khúc khuỷu” miêu tả đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc, gập ghềnh. “Thăm thẳm” là cặp tính từ chỉ độ sâu, nhưng ở đây Quang Dũng đã đem nó để diễn tả độ cao của núi đồi, một độ cao đến rợn người. Thay vì dùng từ “chót vót” khiến người ta còn cảm nhận và thấy được độ cao, từ đó nhìn xuống bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì lại khó có thể hình dung được nó sâu đến thế nào, từ đó ta thấy được sự sáng tạo trong cách chọn lọc từ ngữ và tạo hình thơ của Quang Dũng.

      Câu thơ tiếp theo “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” lại đặc tả đỉnh dốc. Từ láy “heo hút” được đảo ngữ lên đầu câu đã gợi tả và nhấn mạnh vẻ hoang vu, vắng vẻ ở đỉnh dốc. “Cồn mây” là cách nói ẩn dụ gợi hình dung về độ cao của đỉnh núi đến nỗi đã chạm đến mây, nổi thành cồn heo hút. Hình ảnh đó làm cho người lính hành quân trên những đỉnh núi cao chót vót, đầy rẫy những nguy hiểm này như đang dạo chơi ở chốn bồng lai tiên cảnh, trên đầu dưới chân bềnh bồng mây bay, ngòi bút lãng mạn của nhà thơ vì thế lại một lần nữa được phát huy. Ở vế câu còn lại, phép nhân hóa “súng ngửi trời” vô cùng giàu sức gợi. Súng “ngửi” được trời tức là đầu súng của những người lính bấy giờ đã chạm đến trời xanh, chạm đến những đám mây. Việc không dùng “súng chạm trời” mà là “ngửi trời” đã làm nên sự tinh nghịch, hợm hĩnh, tếu táo của chàng nhà thơ người lính, điều đó đã làm tô đậm lên vẻ đẹp lạc quan của người lính giữa thiên nhiên khắc nghiệt. Có thể nói ngôn từ là tinh hoa quý giá nhất của một người làm thơ. Nhà thơ như một kẻ làm vườn luôn muốn chăm cho vườn hoa của mình nở ra những bông hoa ngôn từ đẹp nhất. Và trong văn học, ngôn ngữ luôn là yêu tố đầu tiên, nó giống như là màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Để tạo nên một tác phẩm độc đáo, các nhà thơ cần trải qua quá trình lao động nhọc nhằn, như người đào vàng đi tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp mới có thể lấy ra một viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Bởi vậy, Mai-a-cop-ky mới có câu nói nổi tiếng: “Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ”. Hiểu theo nghĩa ấy thì chữ “ngửi” đúng là đã được Quang Dũng đãi ra từ hàng nghìn cân quặng chữ, chữ “ngửi” xứng đáng là nhãn tự của câu thơ và là tinh hoa của đoạn thơ. Nó đã làm cho tầm vóc của người lính được phát hiện ở tầm cao của núi đồi với vẻ ngạo nghễ, hiên ngang, lãng mạn và đầy hào hoa. Tầm vóc dáng hình các anh như đã ngang tầm vũ trũ, chinh phục mọi nghiệt ngã, thử thách của thiên nhiên. Thế đứng ấy khiến ta nhớ đến bóng dáng các anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:

“ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo."

     Câu thơ thứ ba: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” đã miêu tả cảnh đèo với vẻ đẹp gân guốc, hoang sơ, hùng vĩ, tráng lệ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai vế, đầu mỗi vế là điệp ngữ “ngàn thước” ước lượng nghệ thuật về độ cao và độc dốc của ngọn đèo, tạo cảm giác địa hình nơi đây cứ lên xuống liên tục. Sự tương phản về nghĩa giữa hai từ “lên-xuống” làm câu thơ như bị bẻ đôi, một nửa thì phi thẳng lên trời xanh “ngàn thước lên cao”, một nửa thì lại lao nhanh xuống vực sâu thăm thẳm “ngàn thước xuống” đã tạo nên một thế núi dựng đứng, vô cùng khó khăn, nguy hiểm cho việc hành quân. Nhìn xuống nhìn lên đều thăm thẳm, rợn ngợp. Rải đều ở ba câu thơ là sự xuất hiện của những thanh trắc tạo nên sức gợi về một con đường hành quân đầy gập ghềnh, chông gai mà ở đó ta cũng có thể nghe thấy được tiếng thở nặng nhọc của người lính Tây Tiến.

     Bức tranh hoang sơ của miền núi Tây Bắc lại tiếp tục được miêu tả trong câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” miêu tả cảnh đoàn quân đi trong mưa rừng dịu mát, nên thơ. Nếu như những câu thơ đầu cảnh thiên nhiên được đặc tả bằng những thanh trắc gân guốc, đầy đường nét sắc cạnh thì ở câu thơ này, Quang Dũng đã gieo vào đó toàn thanh bằng là nét vẽ mềm mại, vừa làm dịu mát cho bức tranh núi rừng Tây Bắc, vừa làm gợi lên cảm giác mênh mang, buâng khuâng. Trong màn mưa rừng giăng giăng, những ngôi nhà cứ ẩn hiện, như đang trôi bồng bềnh trong biển mưa ấy. Hai chữ “nhà ai” như một câu hỏi tu từ tạo cho câu thơ cảm giác buồn nhớ lâng lâng, man mác.

     Pau-top-xki đã từng nói: “Ấn tượng đầu tiên của một bài thơ phải là nhịp, nhịp sẽ tạo nên tính nhạc, từ đó mà thi sĩ sẽ nhờ nhạc cất lên tiếng hát của lòng mình”. Tính nhạc trong thơ vô cùng quan trọng, nó không chỉ tạo ra những giai điệu, hình ảnh mà còn góp phần đưa “tiếng hát” của nhà thơ đến với độc giả, làm say đắm tâm hồn người đọc. Đọc đoạn thơ này của Quang Dũng ta như nghe một khúc nhạc du dương với những âm điệu lúc thì cao vút lên cùng núi đèo với những vần trắc, lúc thì trầm bổng mênh mang với những thanh bằng. Đoạn thơ giàu chất nhạc, chất họa cùng với bút pháp lãng mạn của Quang Dũng đã làm cho hiện thực tàn khốc, khắc nghiệt, hùng vĩ của thiên nhiên rừng núi miền Tây trở nên nhẹ nhàng, nên thơ, từ đó mà hình ảnh người lính hành quân trên chặng đường gian khổ đó lại trở nên đẹp đẽ, lãng mạn nhưng không kém phần oai phong, hào hùng.

       Trong dòng cảm xúc nhớ thương về thiên nhiên “xứ Đoài mây trắng”, Quang Dũng cũng không quên nhắc đến những người đồng đội. Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng, và đặc biệt hơn nữa chính là những đồng đội gắn bó cùng anh. Bốn câu thơ tiếp theo chính là nỗi nhớ của Quang Dũng về những người lính đã cùng mình vượt qua những nhọc nhằn, gian khổ trên đường hành quân:

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người."

      Đến với hai câu thơ đầu tiên, tác giả không hề né tránh những hiện thực đau đớn khi phải đối mặt với sự khắc nghiệt của núi rừng. Trên chặng đường hành quân đã có những anh lính đã bỏ lại cuộc đời mình, chôn chân nơi đây vì kiệt sức. Từ láy “dãi dầu” gợi lên sự vất vả, gian khổ không ngại nắng mưa của những người lính Tây Tiến với đầy sự tôn trọng. “Không bước nữa” phải chăng chính là việc “dãi dầu” nay đã quá sức chịu đựng của con người, làm cho bao người lính phải nằm lại mảnh đất xa lạ nơi đây. “Gục lên súng mũ” là một hình ảnh rất đắt để miêu tả tư thế ra đi của người lính. “Gục” là một động từ có tính tạo hình, biểu cảm để thay cho từ “hi sinh” nhưng vẫn giữ nguyên nét nghĩa của nó, vẫn diễn tả được thực tế trần trụi, nghiệt ngã của chiến tranh. Câu thơ làm ta nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:

“ Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công ”
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

      Nếu dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng người người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ cũng sẽ không không phai mờ trong tâm hồn Quang Dũng và những người lính Tây Tiến, đó cũng là một tư thế hi sinh rất cao cả. Người lính không thể chịu nổi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm cho mình một tư thế rất đẹp để “bỏ quên đời”. Ba chữ “bỏ quên đời” là cách nói không những giảm đi rất nhiều phần xót xa, thê lương mà còn tăng thêm tính chất cao cả, sự hi sinh thầm lặng của những người lính Tây Tiến, làm cho cái chết trở nên nhẹ “tựa lông hồng”. “Bỏ quên đời” còn có thể hiểu là giấc ngủ tạm thời khi đã quá mỏi mệt của những anh lính, giấc ngủ đưa các anh vào cơn mộng làm quên đi những thực tại khốc liệt đang phải đối mặt, tiếp thêm năng lượng cho các anh trên những chặng đường tiếp theo. Vần thơ nói đến sự mất mát, hi sinh nhưng không có một chút bi lụy, thảm thương bởi nó đã được nâng đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Quả không sai khi Trần Lê Văn nhận định: “Tây Tiến phảng phất nét buồn, nét bi, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy, ngược lại rất bi tráng”.

     Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục miêu tả bức tranh miền đất Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ với những âm thanh hoang dã rùng rợn. Tác giả đã chọn hai thời điểm chiều và đêm là thời điểm rừng núi bộc lộ rõ sự rùng rợn, nguy hiểm vốn có của nó. Hai thời điểm này cũng được sử dụng với phép điệp “chiều chiều”, “đêm đêm” đã gợi ra sự trùng điệp của thời gian. Những âm thanh được nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” chính là khẳng định cho cái rờn rợn, nguy hiểm của chốn rừng thiên nước độc, nơi con người lần đầu bước chân tới mà thiên nhiên là kẻ làm chủ. Nhưng với nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chưa hề mất dọc cuộc hành trình, nỗi sợ với thiên nhiên đã giảm đi nhiều phần. Quang Dũng lại một lần nữa tinh tế trong việc chọn từ, từ “trêu” trong câu “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” làm vơi đi cảm giá sợ hãi, vì là “trêu” nên chỉ là trêu đùa, cọp beo cũng chỉ để thử thách sự gan dạ, bền gan của người lính Tây Tiến mà thôi. Uy lực thiên nhiên bỗng như bị giảm sút trước tầm vóc của con người, trước đoàn quân Tây Tiến. Điều đó làm tô đẹp lên nét bi tráng của người lính Tây Tiến.

      Bốn câu thơ chính là hình ảnh của những người lính hi sinh trên con đường hành quân và những hiểm nguy, gian khổ mà đoàn quân phải đối mặt khi hành quân trong chốn rừng núi hoang sơ, hoang dã vào chiều tối. Rõ ràng trong cuộc chiến nào cũng có sự hi sinh, và Quang Dũng đã không tránh né nó mà mô tả cái chết của những người lính thật lãng mạn, thật nhẹ nhàng, không đem lại cảm giác buồn bã, thê lương mà lại trở thành những điều thiêng liêng, bất tử trong hình ảnh người lính. Và ngay cả khi đối mặt với những rùng rợn, hiểm nguy, có thể nguy hiểm đến tính mạng của chốn rừng núi Tây Bắc, thì người lính vẫn rất lạc quan, yêu đời.

      Đoạn thơ khép lại bằng hai câu thơ mang cảm xúc bồi hồi tha thiết khi đoàn quân đến với Mai Châu:

“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”

      Sau một chặng đường hành quân gian khổ với những mất mát, hi sinh thì cuối cùng đoàn quân cũng tới bản làng, các anh được đồng bào nơi đây đón tiếp bằng “cơm lên khói”, “nếp xôi”. Đoạn thơ đã miêu tả khung cảnh ấm áp đậm đà tình quân dân. Hai chữ “nhớ ôi” như kéo dài miên man, bộc lộ nỗi nhớ da diết, mãnh liệt những hương vị rừng núi “cơm lên khỏi”, “thơm nếp xôi”, nhớ luôn cả tình cảm ấm áp của đồng bào nơi đây. Hai từ “mùa em” là cách nói sáng tạo của Quang Dũng khi nói về mùa lúa chín, mùa nếp thơm và cũng là mùa của tình quân dân sẽ khắc sâu mãi trong tâm can tác giả. Bằng cách để hai câu thơ này khép lại khổ một của bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng cho thấy thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có cái hùng vĩ, khắc nghiệt, mà nó còn mang cả hương vị của cuộc sống, làm để lại trong ông nỗi nhớ về một Tây Bắc không kém phần thơ mộng.

      Đoạn thơ đã khắc họa thật tinh tế, sống động nỗi nhớ của Quang Dũng về thiên nhiên Tây Bắc bao la, hùng vĩ, hiểm trở, khắc nghiệt, dữ dội mà cũng vừa thơ mộng trữ tình. Nổi bật giữa thiên nhiên ấy là hình tượng người lính hào hùng, dũng cảm, coi thường nguy nan; tâm hồn trẻ trung, lạc quan, yêu đời. Thành công của đoạn thơ nói riêng và tác phẩm “Tây Tiến” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Quang Dũng vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo: thể thơ bảy chữ vừa cổ kính vừa hiện đại. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: nhân hóa, điệp từ, điệp ngữ, tương phản đối lập... Ngôn ngữ thơ đậm chất sử thi, lãng mạn, đôi chỗ giàu chất nhạc, chất họa. Hình ảnh thơ trong sáng mang đậm dấu ấn của cảm hứng lãng mạn. Giọng thơ hoài niệm có lúc bâng khuâng, có lúc hào hùng, bi tráng… Tất cả hòa quyện dưới ngòi bút của Quang Dũng làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của đoạn thơ và góp phần chắp cánh, nâng đỡ cho hồn thơ ấy thăng hoa cùng “Tây Tiến”.

      Đọc Tây Tiến, ta cảm nhận được không chỉ là vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, bi tráng của người lính mà còn còn là vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ, nên họa của thiên nhiên vùng Tây Bắc mĩ lệ. Tất cả hiện lên rõ nét thông qua nỗi nhớ da diết của nhân vật trữ tình. Bằng Tây Tiến, Quang Dũng đã xây dựng nên một tượng đài người lính trong những năm khói lửa chống Pháp để khi đọc tác tác phẩm, giáo sư Hà Minh Đức nhận xét: “Bài thơ có sức hút mãnh liệt giống như một loại từ trường khiến “Tây Bắc” cứ “băng băng” đi vào lòng độc giả”. Đúng như vậy, thời gian đã đi qua mấy mươi năm, đoàn binh Tây Tiến năm ấy kể cả Quang Dũng cũng đã trở thành thiên cổ, nhưng Tây Tiến vẫn mãi còn đó như một lời nhắc nhở thế hệ cháu con sau này phải luôn nhớ đến công ơn của bao thế hệ cha anh đã đổ máu giành lấy độc lập, tự do. Xin được mượn mấy lời thơ của Giang Nam thay cho lời kết:

“ Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông ”

Nhận xét

  1. Bài làm thể hiện đúng phong cách ngôn ngữ khoa học. Các luận đề, luận điểm chặt chẽ, rõ ràng, có sáng tạo khi lồng ghép bài thơ Đồng Chí và lý luận văn học để tăng sức hút cho bài làm. Tuy nhiên, bài làm khá dài so với yêu cầu cũng như trích dẫn những đoạn thơ ngoài hơi nhiều. Cần tinh gọn, xem xét khổ thơ nào bổ trợ cho đoạn đó để giữ lại, còn lại có thể lược đi để đảm bảo tính tự nhiên của bài làm.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Nguyễn Hoàng Phúclúc 09:11 16 tháng 11, 2021

      Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết của mình, mình sẽ rút kinh nghiệm và chỉnh sửa bài làm hoàn thiện hơn,

      Xóa
  2. Bài làm tể hiện đúng kiểu bài nghị luận văn học, phong cách ngôn ngữ khoa học, nội dung phù hợp với lĩnh vực đề tài. Đúng chính tả và ngữ pháp. Bố cục đầy đủ, lập luận chặt chẽ , luận đề luận điểm rõ ràng. Đầy đủ hình ảnh minh hoạ, hình ảnh rõ nét. Có tính sáng tạo khi dùng một vài câu liên hệ của các tác phẩm thơ ca văn học khác làm cho bài văn phong phú hơn. Tên tác giả đúng quy định, nguồn trích rõ ràng. Đăng bài đúng hạn, lưu trữ bài theo yêu cầu của giáo viên. 7,5/8 (bài văn dài hơn 2000 chữ trong phạm vi từ 1000-2000)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn bạn đã nhận xét bài viết của mình, mình sẽ rút kinh nghiệm và chỉnh sửa bài làm hoàn thiện hơn

      Xóa
  3. Sau khi đọc bài của Phúc mình cảm thấy Phúc đã đặt rất nhiều tâm huyết vào bài văn của mình, nhưng sau khi đọc những lời nhận xét trước đó thì bài văn của Phúc đã hoàn thiện hơn rất nhiều !! chúc bài văn của Phúc đạt điểm tuyệt đối <3

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét