Đề 10: Cảm
nhận đoạn 7 (Nhớ
khi...Nhị Hà) để thấy
rõ cảnh chiến khu Việt Bắc trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
“Nhớ khi giặc đến giặc
lùng
Rừng cây, núi đá ta
cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy
sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt
sương mù
Đất trời ta cả chiến
khu một lòng.
Ai về ai còn nhớ
không?
Ta về ta nhớ Phủ
Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố
Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng,
nhớ sang Nhị Hà…”
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Bài làm
Văn học là tấm gương phản ánh
trung thành hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ luôn
hướng tới đối tượng là con người. Nói như Nguyễn Minh Châu: “Văn học và đời
sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Hình ảnh con
người đã trở thành trung tâm, là đề tài, là nguồn mạch không bao giờ vơi cạn
cho nhiều tác phẩm văn học giai đoạn 1945-1975, hình ảnh đó chính là hình tượng
những người lính ngày đêm chiến đấu trên mặt trận vũ trang. Có rất nhiều nhà
thơ viết về đề tài người lính, trong đó ta không thể không nhắc đến Tố Hữu –
người được tôn vinh là cây đại thụ, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Ông để lại cho đời một kho tàng tác phẩm đồ sộ với bảy tập thơ lớn. Thơ ông nổi
tiếng với phong cách trữ tình – chính trị, nghiêng về truyền thống, đậm đà tính
dân tộc. Trong các tác phẩm của thi sĩ Tố Hữu, “Việt Bắc” là đỉnh cao
trong sự nghiệp sáng tác của ông, nổi bật nhất là đoạn trích dưới đây là lời của
người Cách mạng về xuôi tái hiện lại khung cảnh chiến đấu chống các trận càn quét của giặc ở chiến
khu của
quân và dân ta và vai trò của căn cứ địa Việt Bắc trong giai đoạn đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
…
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
(Nguồn:https://www.google.com.vn/url?sa=i&url=http%3A%2F%2Fwww.baohagiang.vn%2Fvan-hoa%2F201510%2Fde-hinh-anh-nhung-mien-di-san-viet-bac-mai-an-tuong-va-vang-xa-644017%2F&psig=AOvVaw3ojSNEEyT1fTDgT3xiMHGz&ust=1637138651425000&source=images&cd=vfe&ved=0CAsQjRxqFwoTCPDR7_S-nPQCFQAAAAAdAAAAABAW)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 – 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt bắc trở về Hà Nội,
nhân sự kiện lịch sử trọng đại này, Tố Hữu đã sáng tác thi phẩm “Việt Bắc”.
“Việt Bắc” là bản hùng ca, khúc tình ca về con người và cuộc chiến đấu đầy
máu lửa mà cội nguồn là lòng yêu nước và đạo nghĩa thủy chung dân tộc. Cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ cuộc chia
tay lưu luyến giữa những người về xuôi và nhân dân Tây Bắc, người chiến sĩ
không nỡ rời xa miền rừng núi, chỉ muốn lưu lại mãi trong trái tim bóng hình của
một Tây Bắc mỹ lệ. Mạch hồi tưởng của người chiến sĩ đi từ hiện tại ngược dòng
thời gian trở về quá khứ để hồi niệm và tái hiện lại những kỉ niệm chiến đấu
can trường, gian khổ và ghi sâu ân tình của
con người kháng chiến, của Đảng, của Bác Hồ vĩ đại. Kết cấu bài thơ có sự hô ứng
qua hai đại từ mình – ta quen thuộc của ca dao giao duyên. Mối tình Việt
Bắc và người cách mạng được người thi sĩ diễn tả như mối tình riêng của đôi lứa
yêu nhau được lồng ghép khéo léo trong thể thơ lục bát uyển chuyển, giàu tính nhạc.
Ký ức của Tố Hữu về thời kỳ
mưa bom bão đạn hiện lên như một cuốn phim về những kỷ niệm chiến đấu nơi Việt
Bắc gian nan, hiểm trở. Trong cuốn phim ấy, hình ảnh chiến khu Việt Bắc trong
giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến hiện ra với vai trò chủ chốt của cuộc chiến,
là một thế mạnh cho quân ta về địa thế:
Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Âm hưởng của đoạn thơ chuyển đổi nhanh, mạnh làm sống lại một thời chiến tranh mưa bom bão đạn. “giặc đến giặc lùng” là thời điểm quân thù lùng sục vô cùng gắt gao hòng triệt tiêu phong trào cách mạng, chúng ráo riết tìm bộ đội ta ở khắp nơi, tiến đánh chiến khu vô cùng khốc liệt. Chữ “giặc” được điệp lại kết hợp với hai động từ “đến” và “lùng” đã tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp. Chúng giết người, càn quét khắp nơi, đốt nhà,… khắp nơi là cái chết của những người vô tội, là những người mẹ mất con mãi mãi, những đứa trẻ lớn lên không bao giờ nhìn thấy cha mẹ thân yêu. Nỗi đau ấy như thấm vào cả đất trời và cây cỏ, đến mẹ thiên nhiên cũng phải tức giận trước tội ác tày trời của chúng và trở thành một lực lượng hùng hậu cùng bộ đội đánh giặc: “Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây”. Hai chữ “rừng” và “núi” được lặp đi lặp lại đến năm lần, nó rải kín câu thơ, rải kín đất Việt Bắc thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Giữa núi rừng hoang vu, địa thế hiểm trở, hùng vĩ đã trở thành căn cứ địa vững chắc tiếp thêm sức mạnh cho quân ta, giúp ta chiến thắng kẻ thù hung ác, hùng mạnh. Một loạt các động từ như “giăng, che, vây” và nghệ thuật tiểu đối, nhân hóa có tác dụng cụ thể hóa vai trò của địa thế. Từng dãy núi cao vút, lởm chởm trở thành bức tường sắt kiên cố, rừng rậm uy nghiêm trở thành áo giáp cho bộ đội và là cái bẫy đối với quân thù. Cái trùng trùng điệp điệp của rừng, cái khí thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi đã làm cho biết bao kẻ thù khiếp sợ. Quả thật Việt Bắc đã trở thành “địa linh nhân kiệt” kể từ đó. Qua đó càng làm sáng tỏ thêm nhận định: Việt Bắc là cái nôi của cách mạng dân tộc ta.
Để chiến thắng được sự tàn bạo của kẻ thù, quân dân ta phải đoàn kết, đồng lòng chiến đấu, hai câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự gắn bó bền vững của quân ta:
Đất trời ta cả chiến khu một
lòng.”
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo
Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang
Nhị Hà…”
(Nguồn:https://www.gettyimages.ca/detail/news-photo/an-army-encampment-at-dien-bien-phu-in-north-west-vietnam-news-photo/3166860)
Từng dòng thơ gợi lại chiến thắng hào hùng, hừng hực khí thế của dân tộc, khiến cho người đọc không khỏi tự hào khi tưởng tượng ra khung cảnh chiến thắng trải dài khắp miền Bắc. Mở đầu cho bốn dòng thơ là đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần kết hợp với câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ không?” là một cách để người cán bộ kháng chiến ôn lại chiến thắng và nhắc nhở mọi người đừng quên không khí đánh giặc. Thi sĩ Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép nghệ thuật liệt kê: “Phủ Thông, đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao – Lạng”, “Nhị Hà” và điệp cấu trúc để tái hiện những trận đánh oanh liệt, những dấu mốc quan trọng như ở “Phủ Thông, đèo Giàng” là nơi đã diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống pháp. Trận sông Lô đánh tàu chiến Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn phố Ràng. Cao - Lạng: Cao Bằng và Lạng Sơn, năm 1950 ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt - Trung. Nhịp thơ ngắn, linh hoạt, có lúc 3/3, có khi 4/4 tạo nên âm hưởng mạnh, dồn dập thể hiện niềm vui, niềm tự hào dân tộc. Tác giả đã khéo léo sử dụng điệp từ “nhớ” cùng với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang” thể hiện nỗi nhớ trào dâng trong lòng tác giả, một nỗi nhớ da diết về chiến thắng oanh liệt của dân ta, về những tháng năm mịt mù khói lửa, về những người anh em đã ngã xuống mảnh đất Tây Bắc. Qua đó, bốn câu thơ thể hiện những kí ức của tác giả khi chiến đấu ở chốn rừng thiêng Tây Bắc.
Qua ngòi bút
tài hoa của Tố Hữu, đoạn trích đã truyền tải những tình cảm sâu nặng, lưu luyến, gắn bó giữa
cán bộ và nhân dân Việt Bắc, giữa miền ngược và miền xuôi, giữa con người và chốn núi rừng Tây Bắc. Đồng thời là bản nhạc hào hùng, vang dội về một thời kháng chiến đầy
máu lửa tuy đã qua nhưng vẫn còn sống mãi theo năm tháng. Tài năng của người
thi sĩ càng nổi bật hơn qua việc sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát vừa tạo
ra âm hưởng thống nhất, vừa biến hóa đa dạng, giọng thơ và hồn thơ nhẹ nhàng
mang đậm âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Nhịp thơ và các biện pháp nghệ thuật như
so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, từ láy khiến cho ẩm hưởng bài thơ khi cao trào cuồn
cuộn nhấp nhô như sóng biển, khi thì dịu dàng, êm đềm như hoàng hôn trên biển.
Có thể nói
“Việt Bắc” hội tụ đủ các tinh hoa của thơ mới, thơ ca thế giới cổ điển và hiện
đại. Thi phẩm là sự kết hợp hài hòa của tính dân tộc, khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn, mang một cái chất rất riêng mà chỉ có ở thơ Tố Hữu. Tố Hữu đã rất
thành công trong việc khắc họa hình tượng người lính qua bài thơ “Việt Bắc”,
thi phẩm không chỉ có những trận chiến máu lửa mà còn có đủ các yếu tố nhạc,
họa, đưa tên tuổi Tố Hữu lên một tầm cao mới. Cuốn nhật kí về những lần sát cánh của bộ đội và con người, thiên nhiên
nơi núi rừng Tây Bắc sẽ sống mãi cùng với bao thế hệ như một lời nhắc nhở thế hệ
măng non phải luôn nhớ ơn công lao của những người đi trước, phải biết trân trọng
nền hòa bình mà ta đang có.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa- Bài viết đầy đủ bố cục ba phần, hoàn thành tiêu chí từ 1000-2000 từ. Mở bài hay và có sáng tạo làm em ấn tượng với câu: “Văn học là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ luôn hướng tới đối tượng là con người”.
Trả lờiXóa- Luận điểm thể hiện sự đồng lòng, đoàn kết của quân dân ta còn thiếu chút xíu phân tích, bạn nên liên kết câu thơ “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” để đối chiếu hai hình ảnh gắn bó giữa bộ đội ta và khung cảnh thiên nhiên xung quanh.
Bài viết của bạn có sự chỉnh chu, hình ảnh đơn giản vẫn gợi nên sự khó khăn cảnh chiến khu Việt Bắc trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài làm có bố cục mới lạ nhìn không bị rối mắt. Mình chỉ có góp ý nhỏ là ở mỗi luận điểm bạn nên ghi ngắn gọn hơn để phần nội dung được diễn đạt nhiều hơn ở phần phân tích, còn lại rất tuyệt vời<3
Trả lờiXóaSản phẩm của Quách Thanh Như, với phong cách ngôn ngữ khoa học,song, với lối phân tích chứng minh "quy nạp"-"tổng hợp" , sưu tập và tìm kiếm luận đề, dẫn chứng xoay quanh luận đề phù hợp, bố cục rõ ràng, các lập luận của bạn được diễn giải theo một trình tự rất logic, nội dung sản phẩm cũng trở nên chặt chẽ hơn, khi đọc cũng cuốn hút hơn.
Trả lờiXóaSản phẩm của bạn có sự đầu tư về mặt hình ảnh, từ ngữ rất phong phú, các suy nghĩ của bạn và bình luận của bạn xoay quanh nhận định cũng nói nên được nét riêng biệt trong cách cảm nhận văn chương của bạn.
Trong quá trình làm bài, bạn có trích thơ từ các tác phẩm khác, có trích dẫn nguồn hoặc tên tác giả, dễ dành khiến người đọc cảm nhận được dẫn chứng theo nhiều khía cạnh, đồng thời cũn so sánh làm rõ nét riêng-chung của tác phẩm bạn đang nghị luận
Sẩn phẩm của bạn đã nộp bài đúng hạn
đạt 8/8 chi tiêu để đánh giá sản phẩm.
bài Văn của bạn Quách Thanh Như, lối diễn văn phù hợp với tiêu chí của một bài văn nghị luận. Nội dung bám sát với luận đề, luận điểm. Số từ đúng yêu cầu trong khoang từ 1000-2000 chữ, hình ảnh phong phú, phù hợp với bố cục làm. Tuy nhiên nguồn trích bạn chỉ ghi từ tên người chụp người viết.
Trả lờiXóaOmg bạn phân tích thật sâu sắc!!! Mặc dù mình rất lười đọc nhưng sản phẩm của bạn đã cuốn mình vào và khiến mình phải đọc hết từ đầu đến cuối. Hình ảnh minh họa đẹp, sinh động, phù hợp với sản phẩm cũng như phong cách hành văn của bạn
Trả lờiXóaGiá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.
Trả lờiXóaTác phẩm "Việt Bắc" vốn thấm đậm bao nỗi thiết tha xen lẫn tinh thần oai hùng của người chinh chiến nhưng nhờ những lời văn đậm chất tình xuất phát từ sâu bên trong nội tâm đầy thi ca của Thanh Như, tôi như lại được chiêm ngưỡng tác phẩm này ở một góc nhìn mới, sáng tạo hơn, khác biệt hơn hẳn.
Nói về đoạn 7 của "Việt Bắc" để làm rõ thấy rõ cảnh chiến khu Việt Bắc trong giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, bạn Thanh như đã có một phần mở bài dẫn dắt tuy chưa đạt đến độ đặt biệt nhưng lại rất riêng biệt. Đó là sự dẫn dắt mượt mà từ giá trị của văn học đến hình tượng trong thi ca rồi dẫn vào tác phẩm. Không dừng lại ở đó, bạn kết hợp việc giới thiệu tác giả vào mở bài phần nào mở rộng thêm, làm phong phú cho cánh cửa dẫn vào bài phân tích.
Tiếp đến bạn giới thiệu hoàn cảnh sáng tác vô cùng đầu đủ về tác phẩm rồi từ đó tài tình nối kế với cảm hứng sáng tạo của thi nhân.
Giới thiệu chung đủ dài, Như tiếp tục phân tích từng đoạn thơ với những luận điểm rõ ràng, xúc tích.
Từng khổ thơ được Như phân tích vô cùng kĩ càng với những từ ngữ giàu tính sáng tạo giúp người đọc hiểu cặn kẽ từng dòng thơ mà hình dung ra hoàn cảnh của những chiến sĩ Việt Bắc mà hơn hết là những nỗi nhớ, nỗi khổ những tiếc thương ém chặt trong tâm hồn người ra đi cũng như người ở lại để giữ cho mình một tâm thế quyết liệt, oai hùng của người quân nhân. Những đoạn phân tích vô cùng chân thực và giàu hình ảnh.
Cuối cùng là đánh giá chung, bạn tóm gọn nội dung và nghệ thuật để ta có thể nắm rõ hơn và nhớ sâu hơn về tác phẩm vô cùng đặc sắc.
Kết bài của Như đã thực hiện tốt vai trò của mình nhờ bàn tay tài hoa và sự thấu hiểu, đặt cái tâm vào bài làm của Như.
Cảm ơn Như vì đã viết nên một bài văn súc tích và đặc biệt như thế!