(Hình ảnh minh hoạ cho bài thơ "Việt Bắc" bởi 18 Nguyễn Ôn Mỹ Linh)
Bài làm
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta nên tìm hiểu bài thơ tiêu biểu của ông: “Việt Bắc”. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc:
“ - Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu... ”
“Việt Bắc” là một trong những đỉnh cao thơ Tố Hữu và là một trong những bài thơ xuất sắc thời kháng chiến chống Pháp. Khúc hùng ca và tình ca “Việt Bắc” tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, đặc biệt thấm đẫm “linh hồn dân tộc” trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh “không viết không được” trước cuộc chia tay của người cán bộ chiến sĩ với đồng bào Việt Bắc sau chín năm gắn bó. Sau chiến thắng Điện
Biên Phủ năm 1954 “nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, hòa bình lập lại ở miền
Bắc. Từ giã “Thủ đô lồng lộng gió ngàn” , Đảng và Chính phủ trở về với Hà Nội-
“Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Nhìn lại chặng đường thơ của Tố Hữu, người ta thấy thơ ông là tấm gương phản ánh tâm hồn của một người chiến sĩ trung thành với lý tưởng của Đảng, sẵn sàng phấn đấu, hy sinh vì dân tộc. Và Việt Bắc chính là một “tác phẩm sinh động mà nhân dân ta, dân tộc ta nhìn vào có thể tự soi gương thấy được hình ảnh chân thật của mình”.
Quãng thời gian dài gắn bó đã làm nảy nở trong người cán bộ xiết bao tình cảm đẹp đẽ về cảnh, về người nơi quê hương Việt Bắc. Tố Hữu từng có tâm sự thế này: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc như đã ở trong tôi”. Vì vậy thi nhân mới có thể khám phá bức tranh thiên nhiên Việt Bắc chân thực đến vậy. Tính dân tộc của bài thơ chỉ cần đọc lên thôi đã thấy được cái mùi đất, mùi nước, mùi khí hậu nơi đây. Đến cái khắc nghiệt của khí hậu khắc nghiệt, dữ dội, sức càn quét của “suối lũ”, sự buốt giá, âm u của “mây mù” giăng kín:
“ Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? ”
Trong bức tranh thiên nhiên khắc nghiệt, lạnh lẽo khó khăn chồng chất, những tia sáng ấm áp từ con người và nhân dân Việt Bắc ấp ủ soi sáng khắp không gian hun đúc lên thứ tình cảm cao đẹp “tình quân dân”. Tuy nhiên, đây cũng chính là những vùng đất đã thử thách ý chí con người ta rất nhiều bởi những điều kiện tự nhiên dữ dội, khắc nghiệt, với “mưa nguồn”, “suối lũ” và cả “mây mù”. Đây là hiện thực của cuộc kháng chiến gian truân mà những người chiến sĩ và đồng bào Việt Bắc đang phải trải qua. Trong khi “mưa nguồn” gợi cho ta về những trận mưa lớn ào ạt, mang theo cái rét buốt giá như đang cứa sâu vào da thịt của những người chiến sĩ thì “những mây cùng mù” đã khơi lên hình ảnh những bước chân nặng trĩu đã thấm mệt của đoàn quân, như ta đã từng bắt gặp trong câu thơ của Quang Dũng: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Không chỉ có mỗi mưa nguồn hay mây giăng lối, người dân và cán bộ cách mạng nơi đây còn phải đối mặt với những trận suối lũ vô cùng dữ dội, tưởng như đang cố gắng cướp đi những thứ mà con người đã bỏ công gầy dựng. Từ “ những” và “cùng” được tác giả sử dụng rất khéo léo,như để nói rằng đó là những khó khăn ập tới dồn dập, liên tục suốt một khoảng thời gian dài. Mười lăm năm ròng rã, gian khổ có, hiểm nguy có nhưng chính sự thử thách này đã làm nổi bật nên tình quân dân gắn bó khăng khít mặn nồng:

“ Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ”
Thì ra, chặng đường hành quân của các anh không chỉ có những khúc hoan ca lạc quan của đời người lính, mà còn phải trải qua cảnh “miếng cơm chấm muối”- một hình ảnh được rút ra từ hiện thực trần trụi của cuộc kháng chiến, gợi lên một sự thiếu thốn đến xót xa. Ta bỗng bất giác nhớ tới những câu thơ khác chính tác giả đã từng viết:
“ Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn ”
Những câu thơ như có máu và nước mắt chảy ra từ đầu ngọn bút, như là sự xót thương, đau đớn rỉ ra từ con tim đang rung lên từng hồi khi một lần nữa được khứ hồi về những ngày xưa, chứng kiến cảnh khốn khó, thiếu thốn, khổ cực trăm bề mà bộ đội ta đã từng trải qua. Nhưng dù hiện thực có nghiệt ngã đến đâu cũng không thể khuất phục được ý chí kiên cường, một lòng với cách mạng của cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Sinh ra trong lúc đất nước rơi vào cảnh lầm than,lớn lên chứng kiến những tội ác, những đau thương, mất mát, thảm cảnh chia ly mà thực dân Pháp đã gây nên, mỗi một người dân đều ôm một mối thù sâu đậm. Đây là mối thù xâm lăng, cướp nước, là mối thù chung của triệu con người Việt Nam lúc bấy giờ. Bởi vì lẽ ấy mà họ thương những người đồng bào cùng khổ, mà cố gắng đùm bọc, chở che nhau trong những năm tháng kháng chiến. Với lời thơ nghẹn ngào, kết hợp với cách ngắt nhịp 2-2-2/4-4 đều đặn, đại từ nhân xưng “Mình” cùng hàng loạt các hình ảnh gợi tả đặc sắc, Tố Hữu đã tái hiện sinh động những năm tháng kháng chiến gian lao đầy mất mát, hy sinh quân và dân, bền bỉ cùng nhau chung sức chung lòng đẩy lùi tất cả. Đúng như lời Bác Hồ căn dặn: “Khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng phải đánh thắng”
Bấy nhiêu sợi nhớ sợi thương, làm sao chứa hết tình cảm của người dân Việt Bắc. Khơi sâu vào mạch nguồn của nỗi nhớ, bốn câu thơ tiếp theo, người dân Việt Bắc tiếp tục khắc ghi vào lòng của người ra đi bằng những câu hỏi tu từ khơi gợi nhiều kỉ niệm với thiên nhiên, rừng núi và con người nặng nghĩa tình:
“ Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
Thiên nhiên núi rừng kỳ vĩ vẫn luôn song hành cùng với những người lính trên mọi nẻo đường hành quân, trên chặng đường theo đuổi cái lý tưởng cao đẹp của dân tộc. Đã từng có một Quang Dũng vẫn ôm một nỗi nhớ “chơi vơi” về rừng núi Tây Bắc, một miền đất xa xôi giờ đã lùi xa vào dĩ vãng. Đã từng có một dòng sông Mã hiện về trong kí ức của nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”, tưởng chừng như vô tri vô giác nhưng trước sự hi sinh anh dũng của những người chàng trai trẻ Hà Thành vẫn “gầm lên khúc độc hành” như tỏ rõ sự đau thương, tiếc nuối vô hạn. Hình ảnh “trám bùi” và “măng mai” là những sản vật của núi rừng Việt Bắc được người dân nơi đây chắt chiu, dành dụm cho những người chiến sĩ. Những món ăn ấy quá đỗi bình dị và đạm bạc, nhưng giữa hiện thực cuộc chiến tranh gian khổ, đó là toàn bộ những gì tốt đẹp nhất mà người dân miền sơn cước có thể dành cho người chiến sĩ miền xuôi. Giờ đây, khi người ”áo xanh” đã giã từ quê hương để về với thủ đô ồn ã, náo nhiệt, những món sản vật ấy biết dành cho ai đây? Hơn nữa,thật tài tình khi tác giả đã mượn cái thừa để nói lên cái thiếu, qua đó thể hiện được sự chung thủy một lòng, nỗi nhớ da diết về những kỉ niệm tình quân dân của người ở lại. Thừa những tình cảm đằm sâu, gắn bó, song, lại thiếu đi cái hình bóng của người chiến sĩ quen thuộc năm nào. Dường như cuộc sống của họ đã bị xáo trộn, không còn trọn vẹn như trước nữa.
Tình cảm cao đẹp chính là tình cảm mang tính truyền thống, đã ăn sâu bám rễ vào cốt tủy của biết bao thế hệ người Việt Nam cả người cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc cũng vậy. Trong tâm trí của người đi, họ không bao giờ quên tấm lòng son sắt của đồng bào:
“ Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son ”
Những ngôi nhà thời chiến được dựng nên từ những lá tranh, lá cọ, trông vô cùng đơn sơ, giản dị, không có gì là sang trọng nhưng thực chất đang ôm ấp trong lòng cả một kho báu giá trị: mối tình sâu đậm mà quân và dân đã có với nhau. Trở về từ chiến trường mưa bom bão đạn, người chiến sĩ không khỏi xúc động khi bắt gặp hình ảnh một nếp nhà quen thuộc, nơi họ được sống trong sự bảo bọc của nhân dân, nơi mỗi củ khoai, củ sắn bé nhỏ, niềm hạnh phúc lớn lao. Thủ pháp đảo ngữ “hắt hiu lau xám”, “đậm đà lòng son” được sử dụng một cách tinh tế, lại càng tô đậm tấm lòng cao quý, đùm bọc, che chở của nhân dân dành cho cán bộ. Nhắc tới Việt Bắc, ta không liên tưởng đến những cái xa hoa, cái màu sắc rực rỡ của cảnh vật, con người chốn phồn hoa đô hội. Những gì đọng trong tim ta về miền đất ấy là gam màu “xám” của bờ lau, của những mái nhà đã bạc màu theo thời gian,là cái màu áo “chàm” mộc mạc giản dị của những người đã dốc lòng, không quản ngại khó khăn mà cùng đồng hành với những người “áo xanh” để làm nên chiến thắng. Tuy nhiên, cái màu “xám” trong câu thơ có thể được hiểu là gam màu trầm của sự chia ly, của nỗi buồn đã nhuộm lên cảnh vật. Họ có thể nghèo về vật chất nhưng luôn giàu có về tinh thần. Mượn hình ảnh nếp nhà để ẩn dụ cho đồng bào Việt Bắc, kết hợp với từ “nhớ”, người ở lại như đang nhắc người ra đi hãy luôn khắc ghi mười lăm năm nghĩa tình gắn bó, đừng bao giờ quên những mái tranh nghèo với những con người đã chắt chiu lấy những gì tốt đẹp nhất để nuôi bộ đội, nuôi Cách mạng trưởng thành.
Nhà thơ Sóng Hồng từng khẳng định: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Để làm nên chiến công hống hách đó, tấm lòng thôi chưa đủ, Tố Hữu còn thổi vào đó hơi thở của thời đại mình. Việt Bắc gợi nhắc tới những sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh, những tên gọi đã trở thành điểm mộc của chiến khu:
(http://baobacgiang.com.vn/bg/chinh-tri/xay-dung-dang/185847/tan-trao-hong-thai-mai-dinh-cay-da.html)
“ Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ”
Lội ngược dòng thời gian, những kỉ niệm từ thuở “kháng Nhật”, từ thời “ Việt Minh” đã in đậm trong tâm khảm của người ở lại để họ tiếp tục cất lên lời gợi nhắc người cán bộ về xuôi. Ở câu thơ thứ ba, chữ “mình” được lặp lại ba lần, gợi cho người đọc những liên tưởng thú vị về nhiều nét nghĩa. “Mình” ở đây không đơn giản là mình với ta, là sự hòa quyện, quấn quýt, tuy hai mà một của người dân với cán bộ cách mạng, mà nó còn lời tự hỏi của những người chiến sĩ miền xuôi. “Mình” rời mảnh đất Việt Bắc để về với thủ đô huyên náo nhưng liệu có quên đi bản thân mình của ngày xưa đã từng nhiệt thành với Cách mạng đến thế, đã từng có những năm tháng chiến đấu, sát cánh bên nhau, chia ngọt sẻ bùi cùng với những người dân miền sơn cước ân tình?. Câu thơ là lời tự hỏi nhưng cũng là lời nhắc nhở về truyền thống tốt đẹp của dân tộc: uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Đồng bào Việt Bắc muốn những người chiến sĩ về xuôi khắc ghi cái đạo lý muôn đời ấy vào tim, dù có đi đâu về đâu, tới phương trời nào cũng hãy đừng quên. Đọc câu thơ cuối cùng, ta nhận ra sự hoán đổi độc đáo: thay vì sử dụng cách gọi thông thường “mái đình Hồng Thái”, “cây đa Tân Trào” thì tên riêng địa danh được tách hẳn ra một vế, tạo thành “ Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Phải chăng đây chính là dụng ý của người ở lại, như muốn thể hiện rằng những địa danh ấy đã trở nên quá đỗi quen thuộc, là một biểu tượng bất tử trong lòng người lính. Bốn câu thơ trên đã làm hiện lên chân dung một Việt Bắc gian nan nhưng đầy tình quân dân, hào hùng của những sự kiện lịch sử.Việt Bắc đã trở thành quê hương cách mạng, với tình quân dân gắn bó. Họ đã trở thành cánh tay trái , tay phải sát cánh cùng nhau làm nên thành công của những cuộc kháng chiến.
Trước đó, nhà thơ vẽ khung cảnh chia tay chan chứa tình cảm, quyến luyến, bịn rịn, cùng lời nhắn gửi của người Việt Bắc, mong ước người người cán bộ kháng chiến hãy thủy chung với quê hương Cách mạng. Đến những dòng thơ tiếp theo, người về xuôi cất lời thề nguyện thủy chung và bày tỏ nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc, thấm đượm nghĩa tình cùng tấm lòng tri ân sâu sắc với đất nước nơi đây:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Kim Kiều xưa dưới trăng thề nguyền “Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Nay người cán bộ cũng mượn hai chữ “đinh ninh” từng xuất hiện trong lời thề đôi lứa đề khắc ghi tấm lòng mình. Tố Hữu dùng từ “sau trước” còn gợi lại cả khoảng thời gian xa xăm từ quá khứ đến hiện tại và tới cả tương lai sau này. Những năm tháng trong quá khứ đã tạo ra mối tri âm bền chắc của hiện tại. Những sẻ chia, cùng khổ thời chiến tranh đã làm “đậm đà”, sâu sắc, thấm thía cho nghĩa tình của hai ta. Dù thời gian có ngày một đầy, hoàn cảnh có nhiều biến động cũng không thể nào xóa nhòa, lay chuyển tình cảm của người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc. Như thấu hiểu được nỗi băn khoăn ấy của đồng bào Việt Bắc, người ở lại cất lời, trực tiếp giãi bày và khẳng định tình cảm của mình: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Vẫn là cấu từ “mình-ta” quen thuộc của lối đối đáp giao duyên truyền thống nhưng dưới sự khéo léo và linh hoạt của Tố Hữu, ta cảm nhận được sự quấn quýt, hòa quyện vào làm một của kẻ ở và người đi. Dường như sự gắn bó quá khăng khít trong suốt mười lăm năm đã khiến cho “ta” và “mình” trở nên quen thuộc đến nỗi không còn phân biệt được nữa, ta cũng là mình, mà mình cũng là ta, tuy hai nhưng lại là một. Câu thơ vang lên như một lời thề thủy chung, son sắt. Là trước sau như một, không thay đổi theo thời gian, mặn mà, nồng nàn, thắm thiết mà sâu đậm. Tình quân dân như cá với nước, sắt son bền chặt ấy cũng chính là một nét đẹp trong đạo lý của dân tộc Việt như ca dao nhắc:
“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy, lòng còn trơ trơ.”
Tố Hữu mượn cách so sánh, ví von quen thuộc để giải bày nỗi nhớ da diết, không vơi cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”. Nhà thơ thật tinh tế khi sử dụng “nước” chứ không phải bất cứ hình ảnh nào khác để ví với nghĩa tình cách mạng. “Nước” trong nguồn bao la, vô tận, không bao giờ vơi cạn. Cũng như thế, tình cảm của người về xuôi đối với đồng bào Việt Bắc luôn đậm sâu tựa như nguồn nước vô cùng vô tận ấy.
Qua lời gợi nhớ của người ở lại, ta hiểu rằng đã từng có một miền đất đi vào trong lịch sử của dân tộc như là quê hương của cách mạng, đã từng có những con người dẫu liên tục trải qua gian lao trong những năm tháng kháng chiến, thiếu thốn, khổ cực tới trăm bề nhưng vẫn một lòng ân tình thủy chung, sắt son với bộ đội với sự nghiệp kháng chiến trường kỳ của đất nước.Thiên nhiên núi rừng và cả con người nơi ấy đã bao bọc những người cán bộ cách mạng, chở che cho họ qua những ngày tháng gian khổ, để rồi in hằn trong mỗi câu thơ, ta thấy được một đoạn tình cảm quân dân tha thiết, mặn nồng cùng đạo lý nhớ ơn đẹp đẽ của dân tộc. Đọc mỗi bài thơ, cái khiến ta bị hấp dẫn trước hết đó chính là hình thức nghệ thuật, bởi “nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc”. Là một nhà thơ tài năng, Tố Hữu hơn ai hết hiểu được điều ấy. Đến với “Việt Bắc” ta thật sự bị lôi cuốn bởi nghệ thuật đậm đà tính dân tộc của bài thơ bởi cấu từ “mình-ta” với lối đáp giao duyên truyền thống được sử dụng khéo léo để diễn tả tình quân dân sâu đậm. Những hình ảnh bình dị đến độ tưởng như chẳng có gì để nói như: trám bùi, măng mai, lau xám, mây mù... nơi núi rừng Việt Bắc đến người mẹ cháy lưng, bếp lửa sớm khuya... đều bước vào thơ Tố Hữu. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng phong phú tạo nên chất quen thuộc với con người Việt Nam. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được, sự thành công phần lớn là nhờ vào dòng cảm xúc tuôn trào trong từng tảng thơ.
"Những cuộc chiến rồi sẽ qua đi…" (An-ton-xtoi). Thật vậy, đạn bom đã thôi thét gào trên những trận mạc, cuộc sống lại trở về bình yên, phố xá thị thành cũng nhộn nhịp như nó vốn có. Chiến tranh có thể lấy đi của ta những sinh mạng, những xóm, những làng thân thương; nhưng chúng không thể nào giết chết tình cảm của con người trong thời đại ấy. Người ta thường nói, tình cảm là thứ dễ đổi thay. Nhưng với tôi, đó không phải là tình cảm chân thành. Một khi cảm xúc đủ mạnh, dù nghìn trùng xa cách, nó vẫn còn đó, vẹn nguyên. Tình cảm của con người Việt Bắc cùng cán bộ năm xưa cũng là một trong những minh chứng cho lẽ ấy. Và nếu không có những áng thơ như "Việt Bắc", tôi chẳng thể nào nhận ra được những lẽ ấy… Qua đoạn thơ, ta còn thấy được tấm chân tình của Tố Hữu với người dân Việt Bắc, những con người hết lòng vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Bài thơ cũng nhắc nhở những người trẻ tuổi hãy luôn ghi nhớ công ơn của các anh hùng, những trang sử hào hùng của dân tộc bởi đó là một nét đẹp trong truyền thống của người Việt từ xưa đến nay.
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaBố cục bài văn chặt chẽ , có luận điểm rõ ràng. Cách dẫn dắt vào từng câu thơ tự nhiên , bộc lộ được những cảm xúc của người viết. Có đầy đủ cách bước làm bài văn nghị luận văn học, hình ảnh minh họa rõ ràng.
Trả lờiXóaBài văn thể hiện rất tốt các luận điểm, sự lồng ghép khéo léo và sự tỉ mĩ trong các chi tiết là một điểm cộng to lớn. Trình bày rất đẹp với sự lồng ghép của cảnh vật thiên nhiên làm chi đọc giả phần nào hòa mình vào khung cảnh của chốn Việt Bắc.
Trả lờiXóa