(tranh ảnh minh họa bài "Việt Bắc" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)
ĐỀ 14: Có ý kiến cho rằng: “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là bản hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu rõ nét nhất”.Bằng cảm nhận về một vài đoạn thơ tiêu biểu trong bài “Việt Bắc” (SGK-Ngữ Văn 12, Tập Một-NXB Giáo dục), Anh/Chị hãy làm rõ quan điểm của mình.
Bài làm
“Núi xa khoác áo màu xanh nhất,
Suối gần hát tiếng tuyệt vời trong ....
Chim rừng ríu rít ca tha thiết,
Buổi tiễn đưa, Việt Bắc đẹp vô cùng.”
Việt Bắc – cái nôi của thơ ca cách mạng, nơi đây đã gắn bó suốt những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ của bộ đội và nhân dân ta. Nơi đây đã đi vào những áng văn kháng chiến như một quê hương thứ hai của cán bộ cách mạng , những chiến sĩ cách mạng – người đã dùng xương máu mà vun tạc nên lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Là một trong những lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam, Tố Hữu cũng bày tỏ nỗi niềm yêu thương sâu sắc, nỗi nhớ da diết đối với chiến khu Việt Bắc trong tác phẩm cùng tên. Với “Việt Bắc” – trong đứa con tinh thần, hồn thơ của Tố Hữu như đạt được sự chín mùi trong phong cách đưa tình vào thơ, có nhiều nhận định còn cho rằng “Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là bản hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”, cũng có ý kiến khác lại khẳng định: “Ở Việt Bắc, tính dân tộc trong nghệ thuật thơ Tố Hữu rõ nét nhất”. Thơ ca là một khái niệm vô bờ, nếu chỉ bằng lời bình mà đánh giá về một thi phẩm là sự thiếu sót, vậy nên hãy cùng phân tích để làm rõ hai ý kiến trên.
“Việt Bắc” được ra đời vào tháng 10/1954, đây là giai đoạn chuyển giao khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, các cán bộ chiến sĩ rời chiến khu Việt Bắc quay trở lại thủ đô Hà Nội. Bài thở được đặt vào một hoàn cảnh rất đặc biệt, đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa con người đã từng gắn bó khăng khít, tình nghĩa cùng gánh vác trên vai nhiệm vụ dân tộc. Mối tình giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc được Tố Hữu diễn tả như một mối tình của riêng ông. Với tài hoa vốn có, thừa hưởng từ gia đình giàu truyền thống nghệ thuật, Tố Hữu đã đưa trọn vẹn những tâm tình của mình vào lời thơ, qua đó khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng lẫn con người Việt Bắc.
Quả không sai khi nói rằng : đối với người làm thơ, thơ là một người bạn đồng hành để gửi gắm những cung bậc của cảm xúc.Giống như câu nói “thơ chỉ tuôn ra khi cảm xúc trong tim đã ứ đầy”, chỉ có cảm xúc chân thật mới có thể tạo nên một tác phẩm văn học chân chính. Vì vậy cảm xúc càng mãnh liệt thăng hoa thơ càng có sức ảnh hưởng tới trái tim người đọc. Với phong cách viết thơ mang đậm màu sắc trữ tình, chính trị, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ, khi sáng tạo nghệ thuật Tố Hữu đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khắc ghi tên tuổi của mình trong nền văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn phản ánh chân thực quá trình của cách mạng. Bởi vậy khi đọc tác phẩm “Việt Bắc”, ta thấy được “Tính dân tộc” thấm nhuần trong từng câu, từng chữ cũng như kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu,...tất cả đều mang một nét đặc trưng riêng vừa cho ta cái cảm giác mới mẻ nhưng lại rất đỗi thân quen, gần gũi với bản sắc dân tộc Việt Nam trong thơ của Tố Hữu.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Câu thơ mở đầu mang âm hưởng ca dao, dân ca chan chứa tình thương của người ở lại với người ra đi, lại xuất hiện thêm lối đối đáp nhịp nhàng với ngôi “mình – ta”, “mình” là để chỉ người ra đi, còn “ta” chính là người ở lại. “Mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối câu, tưởng xa mà lại gần bởi được liên kết bằng động từ “nhớ”. Nỗi nhớ ấy bắt nguồn từ khoảng thời gian “mười lăm năm ấy”. Đó là khoảng thời gian nào mà lại hàm chứa nhiều cung bậc cảm xúc như vậy, mà đủ để khiến người ta phải khắc ghi ?. Chặng đường mười lăm năm kháng chiến trường kỳ, vào sinh ra tử, người người quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, đó là khoảng thời gian mang gam màu đỏ thẫm của dòng máu đã đổ, cũng là khoảng thời gian mang gam màu tự hào vì cuộc chiến của một dân tộc bất khuất, những gam màu kỷ niệm không bao giờ phai. Người ở lại hỏi người ra đi: “liệu có nhớ tới người từng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi cùng với mình hay không ?” Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ thủy chung, sâu đậm đến nhường nào. Vốn dĩ câu thơ “mình về mình có nhớ ta” chính là một câu hỏi tu từ, ko phải để hỏi mà để thổ lộ rõ ràng hơn nỗi niềm mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như người ở lại. Nếu như hai câu thơ đầu là những lời thương nhớ về kỷ niệm “mười lăm năm” gắn bó, thì hai câu thơ sau lại là lời nhắn nhủ chân tình và cũng là lời dặn dò kín đáo của người ở lại. Câu hỏi tu từ thứ hai dường như đã mở ra một khoảng không to lớn và bao quát hơn, đối tượng hỏi không còn bị bó hẹp trong mối quan hệ “mình – ta” nữa, mà nỗi nhớ đó được hướng vào cả cây, cả núi, cả sông, và cả nguồn. Dẫu cây hay núi thì cũng chỉ là vật vô chi, vô giác nhưng đâu đâu cũng ấp ủ những ký ức gắn bó của “mình” với “ta”. Động từ “nhớ” và “nhìn” tuy là các động từ nhẹ, không quá đặc sắc, nhưng lại được điệp lại đến tận hai lần, từ đó tác động mạnh mẽ vào cảm xúc của người đọc. Phải chăng, đây chính là mong muốn rất đỗi kín đáo của người ở lại rằng : Việt Bắc là cội nguồn của cách mạng, là quê hương của cách mạng, là nơi ghi lại dấu vết của dòng lịch sử dân tộc oai hùng, xin hãy khắc ghi. Chỉ qua bốn câu thơ đầu, ta đã thấy được cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, linh hoạt của nhà thơ Tố Hữu, không những thế ông còn âm thầm lồng ghép yếu tố đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, từ đó nâng tầm nghĩa của áng thơ cao thêm một bậc, là một trong những biểu hiện cao quý của tính dân tộc trong thơ ca Tố Hữu.
Sau lời thổ lộ khéo léo hàm chứa nét nghĩa ân tình trong bốn câu thơ đầu của người ở lại là lời giãi bày, bộc bạch cảm xúc của người ra đi. Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng, xao xuyến :
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ , bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương, luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. Như trong thơ Tản Đả từng viết :
“Ai những nhớ ai, ai chẳng nhớ
Để ai luống những nhớ ai hoài ”
Tiếng “ai” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, chẳng hướng tới cụ thể một người nào, bởi tình cảm ấy là dành cho cả một đồng bào nơi Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng “ai” ấy một cách xuất sắc, khi để lại âm vang trong người trở về. Nó khiến cho tâm trạng con người càng trở nên nôn nao, khó tả, những dòng cảm xúc cứ ùa về không thôi. Song với lối dùng từ chọn lọc, cách ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đối lập giữa tâm trạng và hành động lại càng làm cho hiệu quả diễn đạt thêm xúc tích. Tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn ấy còn được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp điệu hai câu thơ sau :
“ Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Cặp thơ lục bát được Tố Hữu gửi gắm thêm một chút nhịp điệu, như đảo phách trong âm nhạc. Màu “áo chàm” đặc trưng cho hình ảnh con người chân chất miền núi Tây Bắc cùng với lời thơ như được phổ nhạc, khắc họa một vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo, nghèo về vật chất nhưng luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã chất chứa biết bao mồ hôi, gian khó nhọc nhằn, một nắng hai sương để chiến đấu, nuôi dưỡng các anh lính cụ Hồ để các anh an tâm đánh giặc. Chẳng phải áo bào, áo gấm tiễn đưa, cảm ơn công lao của các anh chỉ là bóng dáng của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến ta không khỏi cảm kích, biết ơn. Tình cảm bịn rịn ấy còn thể hiện qua cái “cầm tay” - biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết, cầm tay để nói lên cảm xúc trong lòng. Trong thơ ca xưa nay hình ảnh “áo chàm” đã xuất hiện biết bao lần như một biểu tượng dân tộc, hay như từng xuất hiện trong thơ của nhà thơ Thâm Tâm :
“Áo chàm là áo chàm ơi
Người ở đây đó, để người thương nhau”
Với niềm tự hào dân tộc, Tố Hữu đã mang trọn vẹn hình ảnh “áo chàm” vào khổ thơ thứ hai, kết hợp nhịp nhàng sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ và giọng điệu đã tạo nên hiệu quả biểu đạt cao. Chất thơ mang đậm sắc màu núi rừng và cuộc sống của những người dân Việt Bắc đã biến hóa làm cho tính dân tộc trong tác phẩm trở nên nổi bật. Có thể nói với cách gài, cắm các từ ngữ, hình tượng đã cảm xúc trong thơ Tố Hữu như một nốt trầm trong một khuôn nhạc bổng, là nhịp rơi của bản nhạc sâu lắng, làm rõ mối quan hệ khắng khít của người lính với chiến khu Việt Bắc cũng như con người nơi đây.
Ở nơi một áng thơ tiêu biểu cho thơ ca cách mạng như “Việt Bắc”, ngoài nét đặc sắc của tính dân tộc, ta cũng có thể thấy nhận định “đứa con tinh thần” của nhà thơ Tố Hữu là bản hùng ca, bản tình ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến là nhận định không khỏi khiến người ta phải đồng tình. Bài thơ “Việt Bắc” đã khắc họa hết thảy mọi cung bậc tình cảm của tác giả hay nói đúng hơn là giữa người ở lại – người ra đi, giữa nhân dân đồng bào Việt Bắc với cán bộ cách mạng qua bức tranh thiên nhiên và cuộc sống gắn bó, mặn nồng nơi quê hương kháng chiến. Đồng thời, bài thơ cũng là “khúc hùng ca”, “ca khúc khải hoàn” về cuộc chiến thắng vĩ đại của quân và dân ta trong những ngày đêm ra trận tuy vất vả mà cũng rất đỗi hào hùng.
Có thể nói, cả bài thơ “Việt Bắc” là sự hòa quyện giữa khúc tình ca và khúc hùng ca, giữa chất trữ tình và chất hiện thực, giữa tính sử thi và cảm hứng đầy lãng mạn bay bổng. Chính sự hài hòa các yếu tố ấy đã tạo nên tuyệt tác của thi phẩm này. Như nhà thơ Chế Lan Viên từng viết :
“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn ”
Nhưng trên tất cả, tình dân quân thể hiện rõ nhất ở khổ thơ thứ tám, dệt nên khúc hùng ca đầy khí thế chiến thắng của quân ta, kết nên bức tranh “Việt Bắc ra quân”.
“ Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng ”.
Đoạn thơ là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp. Câu thơ vang lên rất đỗi tự nhiên tạo cảm giác khỏe khoắn, hùng tráng chứa đầy niềm kiêu hãnh. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc đã và đang được giải phóng sau bao ngày tháng kháng chiến vất vả. Những từ láy “đêm đêm”, “rầm rập” cùng phép so sánh “đất rung” tất cả đã tạo nên một bức tranh tổng hợp của sức mạnh đoàn kết dân tộc. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ như vươn rộng khắp mọi nẻo đường. Hình ảnh “ánh sao đầu súng” lại làm ta liên tưởng tới chi tiết “vầng trăng treo” trong thơ Chính Hữu hay “súng ngửi trời” trong thơ Quang Dũng. Đây là một hình ảnh lãng mạn khi người lính hành quân trong đêm những ngôi sao sáng trên trời cùng bầu bạn. Ngay cả Nguyễn Đình Thi cũng từng viết về khung cảnh ấy như thế này :
“Ngôi sao nhớ ai mà lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ, giữa hàng quân”
Ngọn đuốc trên tay, dân quân ta không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy, mà còn thắp lên cả một thế hệ , thắp lên cả một tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một ngày độc lập không xa. Sức mạnh của đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho “đá nát”, “tàn lửa bay” không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thuật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua vài dòng thơ ngắn gọn ta như thể trở về với một thời hào hùng của cha ông. Nhớ lại lời tuyên bố chắc như đinh đóng cột của nhà Nho yêu nước Nguyễn Trung Trực năm 1868 : “Khi nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam đánh Tây”, hay như cựu thủ tướng Trương Tấn Sang từng nói: “không thể khuất phục một dân tộc bằng quân sự”. Từ những mốc thời gian, ta lại đúc kết thêm một điều rằng sức mạnh của một dân tộc không chỉ thể hiện ở mặt sức mạnh quân sự mà còn là ý chí, là lý tưởng của từng con dân yêu nước, vẫn một niềm tin “đoàn kết là sức mạnh” hào khí của dân tộc sẽ mãi trường tồn.
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn, bỏ lại đằng sau cái nghĩa thực của cuộc hành quân xé rừng vượt núi, xuyên qua sương dày đêm thăm thẳm và hình ảnh của ngày mai lạc quan phơi phới “Đèn bật sáng như ngày mai lên”. Tác giả đã sử dụng rất thành công biện pháp so sánh, phóng đại “đèn pha” được ví như mặt trời mọc, như ngày mai đến từ trong đêm thăm thẳm nhờ có đèn bật sáng. Nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tưởng cao đẹp. Thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng bộc lộ trọn niềm vui sướng, tin tưởng tuyệt đối vào ngày mai chiến thắng.
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.
Cuối cùng, sau những ngày tháng chiến đấu gian lao, khổ cực, quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không một từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình, Tây Bắc hay Điện Biên,... nhân dân ta vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt – sự đoàn kết không thể nào tách rời của quân và dân ta Tổ quốc cất tiếng gọi. Càng làm rạng rỡ thêm chiến thắng hào hùng của dân tộc Việt Nam, một chiến thắng mà đánh đổi bằng máu thịt, một chiến thắng mà cha ông ta hi sinh cả mạng sống để đổi lấy vận mệnh của dân tộc. Với cách xây dựng hình ảnh kì vĩ, âm thanh hào hùng, sôi nổi, khí thế rộn ràng, nhà thơ Tố Hữu đã thành công khắc họa bức tranh hùng ca “Việt Bắc ra quân” và niềm vui chiến thắng, từ đó làm rõ nhận định “Việt Bắc” chính xác là một bài thơ hào hùng – một bàn hùng ca mang đậm chất sử thi, thấm đẫm phong cách thơ trữ tình chính trị.
Qua những áng thơ trên đủ để ta chứng minh được những nhận định về “Việt Bắc” của Tố Hữu. Tác phẩm vừa mang một giá trị cốt lõi to lớn kết tinh từ văn hóa truyền thống của dân tộc, lại vừa được ông tô điểm bằng những bức tranh, những bản hùng ca cùng cảm xúc dâng tràn của những con dân yêu nước. Từ đó ta lại càng thấy rõ hơn chính nhờ có tính sử thi và dân tộc, tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu nắm vững đầy đủ các yếu tố để ghi tên là một trong những tác phẩm hay nhất gây dựng nên nền văn học kháng chiến cách mạng của Việt Nam
Với phong cách thơ trữ tình - chính trị, Tố Hữu đã chắp bút nên một áng thi ca đậm đà tính dân tộc. Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả. Hơn cả tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc. Thêm nữa cùng với tính dân tộc và tính sử thi kết hợp, Việt Bắc vừa mang lại vẻ đẹp hào hùng, vừa thể hiện rõ ràng bản sắc dân tộc, một nét đẹp không thể nhầm lẫn được tạo ra từ vẻ đẹp riêng biệt từ lịch sử và văn hóa ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam ta.
Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc. Đó đều là những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm hồn của nhà thơ và cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ điệp cấu trúc, nghệ thuật liệt kê, ….Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khó tả ,sự khâm phục tinh thần bất khuất của một thời lịch sử hào hùng đã qua. Quả thật không sai khi nói rằng "thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu ". Nhà văn Macxen Prut cho rằng: “Thế Giới được tạo lập không phải chỉ một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ đều có nét đẹp riêng, phong cách riêng, phong cách độc đáo. Có lẽ, đó chính lời bình phù hợp nhất dành cho Tố Hữu – cha đẻ “Việt Bắc”.
bài viết trôi chảy, mạch lạc, ngôn từ phong phú, có các dẫn chứng sinh động. Tuy nhiên bài viết có dùng các từ viết tắt, cần bỏ các từ đó. Bài chủ yếu nói về nội dung mà ít các biện pháp nghệ thuật, nên phân tích rõ các biện pháp ấy để làm nôi bật tài năng của Tố Hữu và cái hay của Việt Bắc. Mỗi đoạn không có luận điểm, bạn nên viết luận điểm của mỗi đoạn là từng dòng riêng biệt, không được dính vào đoạn trước đó. (24 Quách
Trả lờiXóaThanh Như)
Bài nghị luận " Việt Bắc" của bạn đúng theo bố cục 1 bài văn nghị luận,bài văn sử dụng những từ ngữ vô cùng văn chương, hàm ý cho những chi tiết đúng với luận để, luận điểm . Bạn đã thể hiện được cho người đọc được cả hai luận điểm theo thứ tự " tính dân tộc" trong khổ một và khổ 2, sau đó là tính "sử thi" trong khổ tám, phân tích kĩ càng, rõ ràng những nội dung mà đề yêu càu. Có sử dụng hình ảnh và chú thích ở đầu bài. Tuy nhiên sử dụng hơi nhiều từ ngữ hàm ẩn sẽ khiến cho bài văn trở nên dễ gây nhầm lẫn cho người đọc, và bài văn vượt quá số từ quy định
Trả lờiXóaBài làm thể hiện đúng kiểu bài nghị luận văn học, phong cách ngôn ngữ khoa học, nội dung phù hợp với lĩnh vực đề tài. Bài viết hơn 2000 chữ, đúng chính tả, ngữ pháp. Bố cục đầy đủ, có lập luận chặt chẽ và luận đề luận điểm rõ ràng, đầy đủ hình ảnh minh hoạ, hình ảnh rõ nét. Có tính sáng tạo,bài làm phong phú,sử dụng ngôn từ rất hay và cuốn hút. Tên tác giả đúng quy định, nguồn trích rõ ràng. Đăng bài đúng hạn, lưu trữ bài theo yêu cầu của giáo viên.
Trả lờiXóacảm ơn các bạn về những lời góp ý sản phầm cảu mình
Trả lờiXóa