12 Võ Thụy Khánh Hoàng


(Tranh ảnh minh họa bài "Tây Tiến" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Nguyễn Thái Quang Duy, 3 Võ Thụy Anh)

ĐỀ 03: Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp. Từ cảm nhận của mình về hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.

BÀI LÀM

         Trải qua bốn nghìn năm hình thành và phát triển, trải qua bao giai đoạn thăng trầm, văn học Việt Nam ngày càng mang hơi hướng hiện đại mà vẫn giữ được những giá trị cốt lõi, tinh túy của nền văn học dân tộc. Một trong những giai đoạn quan trọng của nền văn học nước ta là giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975, đây là giai đoạn chứng kiến sự chuyển mình to lớn trong lịch sử dân tộc. Nhắc đến giai đoạn này, ta chắc chắn không thể bỏ qua những cái tên tiêu biểu, gắn liền với một thời đại thơ như: Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Diệu… và một ngòi bút tuy trẻ nhưng lại không kém phần tài hoa – Quang Dũng. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, ông có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Có lẽ vì thế mà hồn thơ của ông mang nét phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Ông có nhiều tác phẩm để đời, nhưng tác phẩm tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông là bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ như là một ghi chép kể lại những gian khổ, những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến, đồng thời cũng khắc họa rõ nét hình tượng người chiến sĩ chiến đấu nơi biên cương xa xôi. Có nhiều luồng ý kiến xoay quay hình tượng ấy, người thì cho rằng: “Người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước”. Người khác thì nhấn mạnh: “Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp”.

         Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt-Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh, sinh viên, phải chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, thiếu thốn. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm, Quang Dũng cũng là một trong số đó. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ "Nhớ Tây Tiến". Bài thơ là nơi ông gửi gắm nỗi nhớ nhung khắc khoải về những tháng ngày chiến đấu cùng đồng đội nơi núi rừng Tây Bắc. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ thành "Tây Tiến". "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ, được in trong tập Mây đầu ô.

          Về hình tượng người lính trong bài thơ "Tây Tiến", ta có thể hiểu ý kiến thứ nhất “người lính ở đây có dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” là nói đến những nét đẹp của người trượng phu giàu tính ước lệ kiểu văn chương trung đại, ra đi với tinh thần nhất khứ bất phục phản, có tinh thần vì nghĩa lớn, là vẻ đẹp hùng tráng. Còn về luồng ý kiến thứ hai “hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp”, ta có thể hiểu là người lính Tây Tiến có nhiều nét đẹp thân thuộc chắt lọc từ đời sống chiến trường của những anh vệ quốc quân thời chống Pháp. Những người lính ra đi vì tiếng gọi của Tổ quốc, tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, trong họ mang vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa.

           Trước hết, “dáng dấp của tráng sĩ thuở trước” nơi người lính Tây Tiến được thể hiện khá rõ nét trong hai câu thơ sau:

                    "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
                    Quân xanh màu lá dữ oai hùm."

           Hai câu thơ trên là bức chân dung tả thực cho hình ảnh người lính Tây Tiến. Do chiến tranh tàn khốc nên các anh phải cạo trọc đầu để thuận tiện đánh giáp lá cà, “quân xanh màu lá” là do thiếu ăn, thiếu uống, do cái lạnh khứa sâu vào da thịt nơi vùng cao, cũng là do căn bệnh sốt rét hành hạ. Tuy vậy, đó cũng là bức chân dung hào hùng, mang khí khái lẫm liệt, quyết hi sinh để bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh “dữ oai hùm” thể hiện tính cách anh hùng, nét oai phong dữ dằn như “hùm”. Đặc biệt, đây chính là lối so sánh ước lệ ta thường thấy trong thơ ca trung đại, so sánh người tráng sĩ thuở xưa với chúa tể sơn lâm để miêu tả sự mạnh mẽ, oai phong, lẫy lừng của họ.

            Bên cạnh hai câu thơ trên, ta cũng có thể thấy nét đẹp của bậc trượng phu nơi những người lính Tây Tiến ở bốn câu thơ tiếp theo:

                    "Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
                    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
                    Áo bào thay chiếu, anh về đất,
                    Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

             Trong bốn câu thơ trên, tác giả sử dụng những từ ngữ Hán - Việt như “biên cương”, “viễn xứ”, “áo bào”, “độc hành” để tạo nên sắc thái cổ kính, trang trọng, thiêng liêng, làm giảm sự bi thương của hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên thùy xa xôi, thay vào đó là sự bi tráng và hào hùng, đồng thời cũng xây dựng hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến như người anh hùng trung đại thực sự. “Chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh” là hình ảnh ra đi quyết tiệt vì Tổ quốc, quyết hi sinh để bảo vệ núi non sơn hà. Ta có thể bắt gặp hình ảnh này nơi người tráng sĩ trung đại thuở xưa, quyết ra đi để gây dựng chí lớn. “Áo bào” là áo chỉ dành riêng cho tướng lĩnh thời xưa, bằng cách sử dụng hình ảnh áo bào, nhà thơ đã nâng vị thế, sự hi sinh của người chiến sĩ Tây Tiến lên một tầm cao mới. Tuy hiện thực là các anh ra đi không có nổi một tấm áo quan mà phải dùng chiếu, nhưng tấm chiếu đó lại là áo bào, là chứng minh vĩnh cửu cho sự hi sinh cao cả, thiêng liêng vì Tổ quốc của các anh. Cách nói “anh về đất” là cách nói giảm nói tránh, giảm đi sự bi thương và tăng tính bi tráng cho sự ra đi của những người chiến sĩ. Nó cũng ẩn chứa hàm nghĩa chết là hóa thân với đất mẹ, với non sông đất nước, để hồn của các anh hòa cùng với hồn thiêng dân tộc, để cái chết của các anh trở thành sự bất tử. Nếu những tấm chiếu được ví như áo bào dùng để đưa tiễn các anh, ta cũng có thể ví tiếng nước cuồn cuộn của sông Mã như khúc nhạc tấu lên để tiễn các anh đi hết chặng đường cuối. Động từ “gầm” đi cùng với chủ thể sông Mã vừa mang tính nhân hóa, vừa mang sắc thái dữ dội, hào hùng. Chính sắc thái đó đã át đi cảm xúc bi thương, phả vào trong câu thơ bầu không khí bi tráng, trang trọng. Khúc nhạc mà sông Mã gầm lên là khúc nhạc của núi sông, của thiên nhiên đất mẹ, khiến cái chết của các anh trở nên tráng lệ, hào hùng. Đây cũng là một nét nghệ thuật nổi bật của phong cách văn thơ trung đại, hình ảnh người tráng sĩ thường được đặt chung với hình ảnh thiên nhiên đất trời để hình tượng hóa tầm vóc của họ, để họ sánh vai với núi sông, với vũ trụ rộng lớn.

         Về luồng ý kiến thứ hai, ta có thể thấy “hình tượng người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp” ở đoàn quân Tây Tiến qua hai câu thơ:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

          Hai câu thơ là hình ảnh tả thực về cuộc hành quân qua khu rừng sương muối của những người lính trẻ. Bút pháp lãng mạn gợi không gian huyền ảo, kết hợp với câu thơ nhiều thanh bằng gợi tả cảm xúc lâng lâng trong lòng người chiến sĩ khi bắt gặp cảnh hoa nở giữa rừng. Qua đó hé mở vẻ đẹp hào hoa, lạc quan, yêu đời trong tâm hồn người lính trẻ. Câu thơ sau cũng thể hiện rõ nét đẹp này:

"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

          Từ láy “heo hút” kết hợp với biện pháp tu từ đảo ngữ tạo sự nhấn mạnh cho câu thơ, gợi nên hình ảnh núi rừng Tây Bắc hoang vu trong tâm trí người đọc. Cách nói “súng ngửi trời” là cách nói tinh nghịch, dí dỏm, mô tả độ dốc của núi rừng Tây Bắc, dốc tới nỗi mà họng súng luôn hướng thẳng lên trời. Cách dụng từ thể hiện tính chất tinh nghịch, ngang tàng, coi thường hiểm nguy của người lính Tây Tiến. Tương tự, ở hai câu thơ phía dưới ta cũng thấy được sự ngang tàng này nơi những người chiến sĩ:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !"

          “Anh bạn” là tiếng gọi thân thương giữa những người đồng đội với nhau. Từ láy “dãi dầu” thể hiện nỗi khó khăn, vất vả của đời người lính. Biện pháp tu từ nói giảm nói tránh “không bước nữa” và “bỏ quên đời” khiến câu thơ bớt tính nghiêm trọng và thêm phần nhẹ nhõm. Hai câu thơ đã tả thực hoàn cảnh vất vả, đầy hung hiểm mà những người lính phải đối mặt. Tuy mang nét bi nhưng khi đọc hai câu thơ ta lại không thấy lụy, thay vào đó ta thấy được sự lạc quan, vẻ đẹp ngang tàng, anh dũng, ngạo nghễ, tinh nghịch, bông đùa với cái chết và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của các anh. Đây là nét đẹp đặc trưng của những người lính Tân thời, những người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó, ta còn thấy ở các anh vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn, đầy chất nghệ sĩ qua bốn câu thơ sau:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

           Động từ mạnh “bừng lên” kết hợp với hình ảnh tả thực “hội đuốc hoa” gợi nên không gian huyền ảo, rực rỡ của một đêm lễ hội. Cách nói “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngây ngất của các chàng trai. Động từ “khèn” kết hợp với “man điệu” và “nhạc” vẽ ra bầu không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm hội đuốc hoa. Bốn câu thơ là bức tranh về một đêm lễ hôi ấm áp tươi vui, nồng men say. Ở đó, con người hiện lên với vẻ đẹp lung linh, hoang dại, trữ tình. Nhân vật trung tâm “em” thì e thẹn, duyên dáng, say đắm lòng người. Còn những người lính Tây Tiến hiện lên trong sự lãng mạn, hào hoa. Đây là nét đẹp đặc trưng của tuổi trẻ, tác giả cũng lồng ghép nét đặc trưng này vào hai câu thơ tiếp theo:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

          “Mắt trừng” ở đây là cái nhìn nảy lửa đối với kẻ thù, thể hiện sự oai phong, lẫm liệt, lòng quyết tâm đánh giặc của các anh. Hai câu thơ ấp ủ giấc mộng lãng mạn của người lính Tây Tiến, tuy các anh chiến đấu rất dũng cảm nhưng cũng rất nhớ quê hương, nhớ người yêu. Các anh đều là những người lính trẻ ra đi vì tiếng gọi Tổ quốc, bỏ lại tình yêu, gia đình và tuổi trẻ để đến chiến đấu nơi biên cương xa xôi, hẻo lánh. Vì vậy chắc chắn các anh đều có một trái tim khao khát yêu thương, trái tim mang đầy chất nghệ sĩ. Hai câu thơ diễn tả vô cùng chính xác tâm hồn lãng mạn, đầy trữ tình của những người lính trẻ, đồng thời cũng thể hiện đúng tinh thần ra đi vì tiếng gọi của Tổ quốc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của họ.

             Hai luồng ý kiến trên đều đúng, tuy nội dung của chúng khác nhau, tưởng chừng như đối nghịch nhau, nhưng thực ra lại là bổ sung cho nhau. Cả hai cùng khẳng định những nét đẹp phong phú của người lính Tây Tiến, là sự hòa hợp giữa vẻ hào hùng, tráng lệ của người anh hùng thời xưa và nét đẹp hào hoa, lãng mạn, trữ tình của người chiến sĩ thời nay.

            Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ chính là khúc ca bi tráng phản ánh vô cùng chân thực cuộc hành quân gian khổ, đầy chông gai cùng sự hi sinh anh dũng và nét đẹp hào hoa, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Hình tượng người lính trong bài thơ hiện lên với những vẻ đẹp hài hòa giữa người tráng sĩ thuở trước và người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp.

              Bài thơ như là một bức tranh khắc họa chân dung những người lính Tây Tiến trẻ tuổi, hào hoa, có tâm hồn nghệ sĩ nhưng vì Tổ quốc mà chấp nhận dấn thân vào nơi hung hiểm, chịu khổ cực, vất vả, thậm chí là hi sinh. Ở các anh hiện lên những phẩm chất, nét đẹp hòa hợp giữa hiện đại và cổ điển, giữa người tráng sĩ khi xưa và người chiến sĩ thời nay. Qua đó, ta thấy được sự tài tình, tài hoa trong việc vận dụng những nét đẹp cổ truyền của dân tộc vào thi ca hiện đại của Quang Dũng. Nhờ đó, ông đã khắc ghi vào lòng người đọc hình ảnh về một đoàn quân Tây Tiến tuy anh dũng, hùng tráng, oai phong lẫm liệt nhưng cũng không kém phần hào hoa, trữ tình, lãng mạn.

















































Nhận xét

  1. Bài viết của bạn bố cục và nội dung rõ ràng, diễn đạt hay. Tuy nhiên, bạn còn thiếu trích thơ ngay phần mở bài, cần đồng ý với ý kiến mà đề bài cho và giới thiệu luận đề ở phần mở bài. Và bạn cần cẩn thận hơn trong vấn đề chính tả: "mãnh mẽ".

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết của bạn diễn đạt rõ ràng, đầy đủ luận điểm và dẫn chứng. Mặc dù vậy, tên bài thơ và các phần trích thơ bạn không để trong dấu " " khiến phần thơ và tên bài thơ không nổi bật lên trong bài.

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết của bạn liền mạch, trôi chảy, nội dung truyền tải được hết phần lớn ý, thể hiện rõ sự hào hùng và tráng lệ của người chiến sĩ Tây Tiến.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét