(Tranh ảnh minh họa bài "Đất Nước" của nhóm vẽ: 32 Vũ Hoàng Anh Thư, 14 Trần Lan Hương, 07 Thái Quang Duy, 03 Võ Thụy Anh)
ĐỀ 05: Phân tích đoạn thơ sau để thấy rõ
vai trò của Nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo tồn văn hóa của đất nước:
“Những người vợ nhớ chồng … hóa nùi sông ta.”
Bài làm
Từ lâu, đất nước luôn là một đề tài được khai thác nhiều nhất trong kho tàng văn học Việt Nam và trở thành nguồn khơi dậy cho sức sáng tạo vô tận của người thi sĩ. Trong những năm tháng đấu tranh giành độc lập, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng, rực cháy ở trái tim mỗi người con đất Việt. Nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy, ta không thể nào quên nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ông được biết đến là nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông hấp dẫn bởi sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, mang màu sắc trữ tình chính luận. Một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất phải kể đến của Nguyễn Khoa Điềm là “Đất Nước”. Đoạn trích này đã thể hiện đầy đủ những cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước, đồng thời nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Và tư tưởng ấy càng được khẳng định rõ ràng hơn bởi vai trò của Nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo tồn văn hóa của Đất Nước thông qua những dòng thơ sau:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in lần đầu đầu năm 1974. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca, thể hiện rõ chủ đề tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân“. Vai trò của nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo tồn văn hóa của đất nước là việc tác giả nhờ vào những khám phá mới mẻ về danh lam thắng cảnh, địa lý đất nước ta để từ đó bày tỏ lên một tư tưởng cao cả. Đó là chính nhân dân đã đóng góp giá trị tinh thần, truyền thống văn hóa dân tộc để gầy dựng, gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước. Và cũng bởi sự hóa thân kỳ diệu của nhân dân đã làm nên đất nước muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm có những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lý của đất nước. Các địa danh trên khắp mọi miền không chỉ là những khung cảnh thiên nhiên thuần túy nữa mà được xem như là những đóng góp, hiến dâng của đồng bào, của lớp người bình dị. Đồng thời, cảnh vật cũng được cảm nhận thông qua đời sống, số phận, tính cách của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Ngay ở câu thơ đầu tiên, ta thấy từ “Đất Nước” được viết hoa giúp tác giả bày tỏ lòng thành kính, sự ca ngợi, tôn trọng của mình khi cảm nhận về Đất Nước, cũng vừa tăng thêm giá trị thẩm mỹ, thiêng liêng cho cả đoạn thơ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng phép liệt kê một loại kỳ quan thiên nhiên trải dài từ Bắc vào Nam như “Núi Vọng Phu”, “Hòn Trống Mái”, “Núi Bút, non Nghiên”, “Hạ Long”, “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, nhằm muốn phác thảo nên tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây đều là các danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng ông cha ta đã phủ cho nó tính cách cách, tâm hồn, lẽ sống của nhân dân. Ở miền Bắc có “Núi Vọng Phu”, “Hòn Trống Mái” biểu tượng cho vẻ đẹp của tình yêu chung thủy, bền vững. “Núi Vọng Phu” nay vẫn còn ở Lạng Sơn, gắn liền với sự tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá. “Hòn Trống Mái” ở Thanh Hóa được tương truyền rằng do hai vợ chồng yêu nhau mà hóa thân thành. Tiếp đến, tác giả gợi lên truyền thống chống giặc hào hùng “Gót ngựa Thánh Gióng” đã để lại chứng tích ao đầm hình móng chân ngựa quanh núi Sóc Sơn ngày nay. Quần thể núi non hùng vĩ bao quanh núi Hi Cương kể về chuyện “Chín mươi chín con voi” quây quần chầu phục đất Tổ, nhắc nhở chúng ta tới công lao xây dựng và giữ nước của 18 đời vua Hùng. Bên cạnh đó, những dòng sông trên đất nước ta là do “Rồng nằm im” từ bao đời nay, nhờ đó mà quê hương ta có dòng sông xanh thẳm giàu phù sa, đem lại sự sống cho mùa màng và nuôi dưỡng đất nước. Nhà thơ còn đưa ta về với vùng đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “Núi Bút, non Nghiên” bởi cậu học trò nghèo dựng nên, gửi gắm đi biết bao quyết tâm, tri thức, biểu tượng cho truyền thống hiếu học của nhân dân. “Hạ Long” trở thành kỳ quan thiên nhiên là nhờ có cả các con vật nhỏ bé góp phần như “Con cóc, con gà”. Các tên làng, tên núi, tên sông “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” cũng nhờ vào những con người vô danh, bình dị chung sức làm nên. Điệp từ “góp” lặp đi lặp lại giúp nhấn mạnh công sức đóng góp vô cùng to lớn, sự hóa thân của nhân dân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho đất nước. Chỉ tám câu thơ mở đầu đoạn phân tích, tác giả đã nhắc đến hàng loạt tên địa danh gắn liền với chất liệu văn hóa dân gian. Qua đó, thiên nhiên địa lý của đất nước không đơn thuần là sản phẩm của tạo hóa nữa mà đâu đâu cũng ẩn chứa bóng hình của nhân dân. Tất cả người dân bình thường trên khắp mọi miền đều chung tay làm nên Đất Nước.
Song song với những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lý thì dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, thiên nhiên đất nước ta còn hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã hóa thân vào bóng hình đất nước, đã tạo dựng, đặt tên và ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên một tầm khái quát sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Hai câu đầu khẳng định hình hài và vóc dáng cuộc đời của nhân dân trong không gian đất nước. Những tên núi, tên sông, tên ruộng đồng gò bãi… đều mang đậm “Một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Nghĩa là nhân dân không chỉ góp danh thắng tươi đẹp mà còn gửi gắm vào đó những giá trị tinh thần, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa lưu truyền đến mai sau. Cảm thán từ “Ôi” đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết và nỗi xúc động của tác giả trước những đóng góp thầm lặng của nhân dân. Ở hai câu cuối, hình tượng thơ được nâng dần lên rồi chốt lại bằng một câu mang đậm vẻ đẹp trí tuệ “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”. “Núi sông ta” sở dĩ có được là nhờ sự hi sinh cả cuộc đời của cha ông khi xưa. Mọi thứ đều do nhân dân hóa thân thành, được kết tinh bởi công sức, khát vọng của những con người bình thường, vô danh suốt bốn nghìn năm đất nước. Có thể thấy, từ những cuộc đời, sự hóa thân cụ thể, tác giả đã thể hiện nhận thức sâu sắc về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên với con người, giữa đất nước và nhân dân. Đây còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào của tác giả dành cho thế hệ đi trước.
Vai trò của Nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo tồn văn hóa của đất nước là vô cùng quan trọng bởi vì chính những sự cống hiến, sức mạnh to lớn của họ thì mới có được một đất nước Việt Nam toàn vẹn như ngày hôm nay. Ta thấy đoạn trích “Đất Nước” là những cảm nhận, định nghĩa độc đáo và mới mẻ về Đất Nước. Đất Nước gắn liền với quá khứ lâu đời, với truyền thống văn hóa của dân tộc ta. Không chỉ thế, Đất Nước còn hiện diện và hình thành từ đời sống sinh hoạt, tình cảm, lao động, chiến đấu của nhân dân. Từ đó, tác giả xác định rõ ràng về trách nhiệm của mỗi người đối với dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do với giọng điệu tha thiết, trang nghiêm, đan xen mạch cảm xúc phóng khoáng, ngôn ngữ thơ bình dị, mộc mạc và đậm đà tính dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa lặp đi lặp lại nhiều lần giúp làm tăng giá trị thẩm mỹ, sự thiêng liêng cao cả cho đoạn thơ. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa, văn học dân gian phong phú để tạo nên cả một thế giới nghệ thuật vừa bay bổng, kì diệu, vừa gần gũi, thân quen. Ông còn thể hiện tài nghệ của mình thông qua bút pháp trữ tình và chính luận kết hợp hài hòa cho việc cảm nhận về đất nước mang chiều sâu suy tưởng. Đoạn thơ đậm đà màu sắc sử thi với cảm hứng lãng mạn, có tính nhân dân sâu sắc. Chính vì vậy, tác phẩm đại diện tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, bộc lộ rõ nét sự tài hoa cũng như tâm hồn phong phú trong con người ông. Tóm lại, tất cả những điều đó đã góp phần khẳng định chắc nịch về vai trò của nhân dân trong công cuộc dựng nước và bảo tồn văn hóa của đất nước.
Có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam những dòng thơ bất hủ, nổi bật lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, do nhân dân làm ra, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Đoạn trích cũng giúp cho người đọc thấy rõ cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều phương diện lịch sử, địa lý, văn hóa. Để rồi dù trải qua bao nhiêu năm tháng, đoạn thơ vẫn giữ nguyên được giá trị, sức thu hút mạnh mẽ trong lòng độc giả cũng như khơi dậy lòng yêu nước của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Ta càng thấu hiểu sự cống hiến, sức mạnh to lớn của thế hệ cha ông đi trước thì càng phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với dân tộc. Bản thân em là một người học sinh sẽ cố gắng chăm chỉ học tập để tương lai ra sức xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc, luôn ghi nhớ những tuyền thống quý báu, sự hi sinh của toàn thể đồng bào nhân dân ta khi xưa…
Bài viết của bạn trình bày rõ ràng, sử dụng từ ngữ hay, dễ hiểu, cảm xúc. Có thể đối với người chưa từng được biết qua bài này, thì khi tham khảo bài của bạn, họ có thể hiểu được phần nào.
Trả lờiXóaBài của bạn hay diễn đạt đầy đủ cảm xúc, phân tích đầy đủ và giúp người xem dễ hiểu vì cấu trúc mạch lạc rõ ràng
Trả lờiXóanhận xét của Lê Ngọc Anh-02
XóaBạn trình bày đúng chính tả, ngữ pháp; bố cục cả bài hoàn chỉnh, rõ ràng; thể hiện đúng phong cách ngôn ngữ khoa học, kiểu bài NLVH.
Trả lờiXóa